Cảnh 6: Ma-Nơ-CanhTôi có một giấc mơ kỳ dị. Khi thức giấc, tôi không thể nhớ được nội dung giấc mơ đó, nhưng cứ nghĩ đến nó thì thấy rùng mình.
Kiyoshi vẫn đang ngủ. Tôi nghe tiếng cậu càu nhàu khi tôi chui ra khỏi túi ngủ.
Bên ngoài trời rất lạnh, nhưng không khí thật trong lành. Tôi hoàn toàn tỉnh táo khi xuống đến chân cầu thang.
Xe của Emoto khởi động rất dễ, tôi lái ra Cao tốc Meishin, hòa vào dòng xe cộ lưu thông một cách thuận lợi. Một tấm biển quảng cáo trên bãi trống bên tay trái lọt vào tầm mắt. Một cô gái đang mỉm cười bên cạnh chiếc tủ lạnh, mái tóc tung bay trong gió. Đột nhiên, giấc mơ trở lại với tôi. Một thiếu nữ xinh đẹp, hoàn toàn ᛕᕼỏᗩ 丅ᕼâᑎ, đang vùng vẫy giữa đại dương, mái tóc dài của cô ta dập dờn theo sóng. Hai bầu ✓ú, bụng và đầu gối của cô ta gầy một cách bất thường, như thể được bó chặt lại bằng một sợi dây. Cô gái nhìn thẳng vào tôi, nhưng tôi không tài nào nhận ra cô ta. Dường như cô gái đang ra hiệu cho tôi trong sự im lặng lạnh lùng. Sau đó cô gái biến mất dưới những lớp sóng tối đen.
Tôi ớn lạnh khi nghĩ tới giấc mơ. Phải chăng đó là một dạng thông điệp từ Azoth? Tôi đột nhiên nhớ đến sức mê hoặc kỳ quái đã ám ảnh Tamio Yasukawa khiến người đàn ông hóa điên và nhảy xuống biển...
Tôi ra khỏi đường cao tốc ở giao lộ Komaki và dòng xe cộ đột nhiên trở nên đông đúc hơn. Mãi tới 11 giờ trưa tôi mới đến được Meiji-Mura. Tôi đỗ xe và lên một chiếc xe buýt chở du khách tới lối vào công viên. Đường rất hẹp, cành lá của những cái cây thấp tè liên tục quét qua kính xe buýt chẳng khác gì đang đi trong rừng. Rồi đột nhiên một vùng nước xanh thẫm hiện ra - hồ Iruka. Công viên di sản được thiết kế giống như một bảo tàng ngoài trời khổng lồ.
Tôi lần theo bảng chỉ dẫn tới khu phục chế một trung tâm thị tứ điển hình của thời Minh Trị. Điều làm tôi ấn tượng nhất đó là toàn bộ nơi này trông chẳng khác gì của Mỹ. Rõ ràng là các kiến trúc sư thời Minh Trị chịu ảnh hưởng sâu sắc của phong cách xây dựng phương Tây. Rất ít công trình từ thời đó còn lại nguyên vẹn đến ngày nay ở Nhật Bản: quá trình đô thị hóa nhanh chóng đã làm thay đổi cảnh quan đô thị, dẫn đến tình trạng mai một phong cách truyền thống. Trong khi đó, người Anh vẫn sống trong những ngôi nhà cổ xưa với đồ đạc như cũ từ thời Sherlock Holmes. Một thành phố Nhật Bản điển hình trông rất tẻ nhạt và thiếu điểm nhấn: mọi tòa nhà mới xây đều trông như một nhà máy hoặc nhà tù. Bị bao bọc trong những bức tường trát vữa và những ô cửa sổ nhỏ xíu, người dân chẳng khác gì đang sống trong những nghĩa địa. Dân cư sống không thọ do bị nhồi nhét trong những tòa nhà kiểu phương Tây: có lẽ phong cách này không thật sự phù hợp với khí hậu Nhật Bản. Trước đây, vào mùa hè, người ta ưa để cửa sổ mở để giảm sức nóng và độ ẩm trong nhà. Ngày nay để bảo vệ sự riêng tư của mình, họ xây nhà bằng những khối bê tông dày cộp bốn xung quanh. Kết quả của sự thành công trong kinh tế thời hậu chiến ở Nhật Bản đã khiến hầu hết các hộ gia đình Nhật ngày nay, phụ thuộc vào máy điều hòa nhiệt độ. Sớm muộn, chúng ta cũng phải tìm cách loại bỏ những khối bê tông xấu xí ấy.
Trong lúc lang thang ở Meiji-Mura, tôi bắt đầu ao ước rằng kiến trúc Nhật Bản sẽ lấy lại nét phóng khoáng như đã từng có trước đây.
Tôi đi qua một cửa hàng thịt và Nhà thờ Thánh John, sau đó đến hai công trình truyền thống Nhật Bản. Một trong số đó là ngôi nhà thuần Nhật Bản nơi nhà văn Soseki Natsume đã viết tiểu thuyết nổi tiếng Tôi là con mèo. Có vài người đang ngồi ngoài hiên. Một người trong số họ bắt chước Natsume gọi to, “Lại đây, mèo con, mèo con!”. Giá mà Kiyoshi có mặt ở đây, cậu ấy hẳn sẽ rất khoái đóng giả làm nhà văn huyền thoại đó.
Ý nghĩ tiếp nối ý nghĩ, và tôi nhớ lại một dòng trong cuốn tiểu thuyết khác của Natsume, cuốn Thế giới ba góc. Tôi nhớ đến nó khi tôi đọc lần đầu tiên:
“Tiếp cận mọi việc một cách lý trí, bạn sẽ trở nên cay nghiệt. Bơi đi trong dòng cảm xúc, bạn sẽ bị cuốn phăng đi… Thế giới này của chúng ta không phải là nơi sinh sống dễ chịu.”
Tôi dám chắc Kiyoshi rất hợp với hình ảnh đầu tiên. Trong khi đó, tôi là tuýp người thiên về tình cảm hơn: tôi luôn dễ dàng bị cuốn đi. Cả hai chúng tôi đều không thành công trong thế giới xô bồ. Lúc này đây tôi càng thấm thía những gì Natsume nói. Bunjiro Takegoshi rất giống tôi ở khía cạnh này - đó là con người của tình cảm. Nếu tôi rơi vào tình huống của ông ta, chắc tôi cũng sẽ làm đúng những gì ông đã làm. Và dĩ nhiên, thế giới này không phải là nơi dễ chịu để ông ấy sống.
Gần ngôi nhà của Natsume có mấy bậc cấp đá, khi tôi bước xuống đó, một con mèo trắng chạy vụt qua trước mặt tôi. Nó khiến tôi mỉm cười: bất kỳ ai nuôi mèo đều có khiếu hài hước cả. Bậc cấp dẫn xuống một quảng trường thực chất là nhà ga xe điện Kyoto cũ chạy quanh thành phố. Ở góc phố khác, một nhóm thiếu nữ đang cười khúc khích khi chụp ảnh cùng một người đàn ông trung niên trong trang phục cảnh sát thời xưa. Ông mặc quần dài màu đen có đường chỉ vàng chạy dọc bên sườn, thắt lưng đeo thanh kiếm cũng màu vàng. Trong khi các cô gái lần lượt tạo dáng thì viên cảnh sát vân vê bộ ria rậm cong ✓út hình ghi đông của mình khiến cho các cô gái cười ngặt nghẽo. Vài vị khách khác mỉm cười khi xếp hàng chờ đến lượt chụp ảnh.
Mọi thứ ở đây diễn ra thật dễ chịu và nhẹ nhàng. Nhân viên phục vụ đều đã đứng tuổi, tốt bụng và rất yêu thích công việc của mình. Bỗng nhiên tôi có cảm giác rằng người đàn ông mặc giả cảnh sát thời Minh Trị có thể chính là Hachiro Umeda. Tôi quyết định sẽ quay lại để nói chuyện với ông ta sau.
Tôi leo lên xe điện. Người soát vé đứng tuổi ᴆục lỗ vé, đóng dấu và trao trả lại cho tôi rồi nói, “Anh có thể giữ lấy vé để làm kỷ niệm của chuyến đi.” Tôi tự hỏi lẽ nào cuộc sống ở Nhật Bản có thể yên bình dễ chịu đến vậy. Chắc chắn đây là một trải nghiệm khác xa với tàu điện ngầm ở Tokyo vào giờ cao điểm.
“Ngọn hải đăng xuất hiện bên phải quý vị vốn nằm ở Shinagawa thủ đô Tokyo… và ngôi nhà bên tay trái là nhà của nhà văn nổi tiếng Rohan Koda…” Người soát vé nói bằng giọng rất tự tin của một người kể chuyện chuyện nghiệp hoặc một diễn viên sân khấu. Mỗi lần ông chỉ vào một tòa nhà hoặc công trình lịch sử nào đó để giới thiệu, nhóm phụ nữ trung tuổi trên xe điện lại đổ dồn từ một bên này xe sang bên kia để nhìn cho rõ. Họ làm cho tôi nhớ tới hình ảnh những con trâu chạy tán loạn.
Khi xe điện dừng tại ga cuối, người soát vé nhảy ra khỏi ghế ngồi. Ngạc nhiên trước sự vận động nhanh nhẹn như vậy, tôi nhìn theo qua cửa sổ, quan sát hoạt động của ông ấy. Bất chấp tuổi tác và vóc dáng nhỏ thó của mình, người soát vé vẫn nhảy vọt lên tóm lấy sợi dây mắc vào cần truyền điện giống như một con ếch nhảy lên một cành liễu. Sau khi cái cần bị kéo xuống, người soát vé chạy bên cạnh chiếc xe khi nó xoay trên bàn quay đầu. Chuyển cần truyền điện sang hướng ngược lại, người soát vé chạy trở lại chiếc ghế ngồi của mình. Ông ta ra hiệu cho tài xế tiếp tục, chiếc xe điện lại từ từ chạy ngược lên, giống như con bò vừa thức dậy sau một giấc ngủ ngắn.
Động tác nhanh nhẹn của người soát vé khiến tôi ngạc nhiên. Dường như không ai ở Meiji-Mura tỏ ra vội vã cả và có vẻ thời gian biểu không tồn tại ở nơi này, nhưng cho dù vậy thì ông ấy cũng tỏ ra thích thú với việc vận hành mọi thứ suôn sẻ. Tôi tin chắc gia đình ông sẽ rất lo lắng nếu họ nhìn thấy công việc của một người soát vé phụ xe điện nhọc nhằn thế nào. Sự năng nổ hoạt bát cho thấy ông không hề bị đau lưng hay mất ngủ - nhưng nếu ông bị đột quỵ trong khi đang nhảy thì sao nhỉ? Chà, như vậy âu cũng là số phận mà thôi. Thực tế cho thấy người đàn ông đó sẽ hạnh phúc khi được ૮ɦếƭ cùng với sợi dây xe điện trong tay hơn là bình yên trút hơi thở cuối cùng trên giường bệnh. Tôi nhớ những gì Shusai Yoshida đã nói về việc ghen tị với bạn của mình đang làm việc ở công viên này. Tôi có thể hiểu được tại sao ông ấy lại cảm thấy như vậy.
Rời ga xe điện, tôi đi qua đường tàu hỏa Shimbashi và Nhà máy kính Shinagawa. Cuối cùng, đến Bưu điện Uki-Yamada. Tôi đã sẵn sàng gặp Azoth!
Tôi chậm rãi bước lên bậc đá và vào bên trong. Sàn gỗ ở đây được phủ một lớp dầu. Tôi cảm thấy lo lắng và sợ hãi. Ánh nắng tràn vào qua những ô cửa sổ trên cao. Những hạt bụi lơ lửng trong không trung. Tôi là người duy nhất ở đây.
Phòng triển lãm được bài trí theo trật tự niên đại, bắt đầu với hình tượng một người chạy bộ để truyền tin và phát thư tín. Kế đến là chiếc hòm thư đầu tiên được hệ thống bưu chính Nhật Bản sử dụng. Sau đó là một vài thiết kế khác nhau và kết thúc là một hòm thư màu đỏ rất quen thuộc có dáng một cây cột. Rồi đến hình ảnh bưu tá trong các kiểu đồng phục khác nhau.
Tôi bắt đầu cảm thấy bực bội. “Cô ta đâu nhỉ?” Tôi tự nói với mình khá to. Tôi xoay sang một bên và ở đó, trong một góc tối, là một ma-nơ-canh nữ mặc bộ kimono màu đỏ với mái tóc đen cắt ngang trán. Ngươi có đúng là cô ta không?
Tôi rụt rè tiến đến gần ma-nơ-canh, ngập ngừng như một đứa trẻ. Cô ta đứng thẳng, đôi mắt to đen vô hồn đăm đăm nhìn tôi. Lớp bụi trên tóc và vai của ma-nơ-canh chính là minh chứng rõ rệt cho lịch sử bốn mươi năm của cô ta.
Ngươi là ai? Ngươi muốn nói gì với ta nào?
Trong buổi chiều bình yên, đối diện với thứ bí ẩn này, tôi cảm thấy thật đơn độc, rồi đột nhiên sợ hãi. Tôi bắt đầu rùng mình và vòng tay ôm quanh mình. Tôi tựa lưng vào hàng rào bảo vệ để nhìn cho rõ hơn: đôi chân tôi muốn khụy xuống.
Nếu cô ta cử động thì sao nhỉ?
Tôi đứng sững tại chỗ - cách xa gần hai mét - đăm đăm nhìn cô ta. Ma-nơ-canh có những nếp nhăn quanh mắt. Đôi mắt bằng thủy tinh, đôi tay trông đúng là nhân tạo.
Đợi đã… những nếp nhăn trên mặt cô ta? Mình phải nhìn gần hơn nữa…
Tôi nhìn quanh chẳng thấy ai cả. Nhưng khi tôi vừa định bước qua rào chắn, cửa bưu điện bất ngờ mở và lao công bước vào, cầm theo một cây chổi và một cái xẻng và nó phát ra tiếng kêu lanh lảnh khi chạm xuống sàn.
Mất hết cả nhuệ khí, tôi hối hả rời khỏi tòa nhà bưu điện…
Cảm thấy đói ngấu, tôi mua mấy cái bánh bao cùng hộp sữa và ngồi xuống một chiếc ghế băng. Từ đây, tôi có thể quan sát rõ lối vào chính của Khách sạn Hoàng gia Tokyo nổi tiếng. Trước mặt tôi là hồ nước với một cây cầu hai nhịp. Vài con thiên nga đang lướt trên mặt nước. Quá là đẹp và yên bình vô cùng. Không thấy bóng dáng của con người. Một vệt khói bốc lên phía trên những rặng cây, rồi đầu máy hơi nước xuất hiện từ trong rừng, kéo theo ba toa xe hối hả lăn bánh lên cây cầu sắt.
Trong lúc trệu trạo nhai bánh, tôi bắt đầu băn khoăn tự vấn bản thân, tâm trạng hoàn toàn bối rối. Làm sao Tamio Yasukawa lại có thể nghĩ rằng ma-nơ-canh đó là Azoth được chứ? Không thể nào. Không, không phải ma-nơ-canh đó. Yasukawa mất trí rồi chăng? Hay có ai đó đã đánh tráo vật thật?
Tôi quay trở lại để quan sát thêm nhưng thật tiếc, trong nhà bưu điện có vài vị khách. Tôi đăm đăm ngắm nhìn ma-nơ-canh và sau đó đi tìm Hachiro Umeda.
Khi tôi quay lại thì viên cảnh sát có bộ ria ghi đông đang quét khoảng sân rộng trước đồn. “Tạm biệt ông,” một nhóm thiếu nữ vui vẻ cúi người chào khi ra về. Viên cảnh sát cũng cúi người đáp lại.
Tôi bước lại gần ông. “Cháu xin lỗi, hình như bác là Hachiro Umeda phải không ạ?” Tôi hỏi.
“Vâng, chính là tôi đây,” ông cởi mở đáp lại.
“Cháu tên là Ishioka tới từ Tokyo. Bác Shusai Yoshida có nhắc đến tên bác với cháu. Bác ấy giới thiệu cháu đến gặp bác.”
Vẻ tò mò hiện rõ trên mặt ông Umeda. Sau khi tôi giải thích mọi chuyện - lúc này tôi đã có rất nhiều thực tiễn - ông ấy đặt cây chổi xuống, mời tôi vào trong và đưa cho tôi một cái ghế.
“Để xem nào… Tamio Yasukawa… Ồ, ồ, tôi nhớ ông ta rồi. Một tay nát rượu. Ông ta ૮ɦếƭ rồi phải không? Tội nghiệp thật, lão già đó sẽ được tận hưởng cuộc đời tươi đẹp hơn nếu như chuyển đến đây. Không khí trong lành, thức ăn ngon... Mọi thứ đều tuyệt vời đối với lão ta nếu như ở đây cho phép uống rượu!” Ông ngừng lại, mỉm cười và nói tiếp, “Trong bộ đồng phục này, trông tôi cũng bảnh đấy chứ nhỉ? Đây đúng là giấc mơ của tôi đấy. Để có cơ hội mặc một bộ đồng phục với cây kiếm như thế này, tôi sẵn lòng làm bất kỳ chuyện gì - thậm chí tham gia diễu hành hoặc đứng làm mẫu chụp bích chương. Cho nên khi nhận công việc ở đây, tôi rất phấn khởi. Tôi có vài lựa chọn như soát vé trên tàu hỏa, lái xe điện hay bất kỳ việc gì, nhưng ngay tức khắc tôi chọn công việc của một cảnh sát!”
Umeda vui vẻ và thân thiện, nhưng lại khiến tôi thất vọng. Từ tất cả biểu hiện, nhiều khả năng là người đàn ông trung niên vui vẻ này chẳng thể nào là tác giả kế hoạch phức tạp của Umezawa và thực hiện những vụ sát nhân kinh khủng. Thêm nữa, trông ông ấy chỉ mới ngoài ngũ tuần, trẻ hơn rất nhiều so với Umezawa nếu như ông ta còn sống. Dĩ nhiên, chắc chắn nhờ lối sống lành mạnh mà ông có được sự trẻ trung như vậy.
Tôi hỏi xem liệu ông ấy đã từng nghe nói đến Heikichi Umezawa chưa.
“Heikichi Umezawa hả? À, chuyện đó rất thú vị. Ông Yasukawa từng có lần say khướt và gọi tôi là Heikichi Umezawa. Tôi bảo ông ta tôi không phải là Umezawa, nhưng ông ta cứ cúi gập người và nói với tôi như thể tôi chính là người đó vậy. Có lẽ tôi giống ông ấy chăng? Nhưng Umezawa là một tội phạm, cho nên tôi không thích lắm. Giờ tôi trong giống Tướng Nogi hay Hoàng đế Minh Trị, chuyện rất khác đấy. Chuyện đó làm cho tôi rất hạnh phúc!” Ông ấy cười to.
“Cháu xin lỗi, nhưng cháu có thể hỏi bác đã sống ở đâu vào năm 1936 không? Thời gian cũng quá lâu, gần bốn mươi năm rồi, nhưng…”
“Năm 1936 à? Hừm… tôi mới 20 tuổi… Hồi ấy là trước chiến tranh, cho nên tôi sống ở Takamatsu trên đảo Shikoku. Tôi làm ở một cửa hàng rượu.”
“Bác sinh ra ở Takamatsu ạ?”
“Phải rồi.”
“Nhưng bác lại nói tiếng vùng Osaka?”