Thông tin đầu tiên Hauck nhận được là từ tạp chí Thế giới Mustang. Đó là danh sách những thành viên mới tham gia mà anh đã yêu cầu.
Về đến nhà, anh liếc qua bảng danh sách dài dặc tên các thành viên. Một nghìn sáu trăm bảy mươi lăm người. Danh sách dài tới vài trang, được sắp xếp theo thứ tự mã bưu điện, bắt đầu với bang Alabama. Rồi đến tất cả những người yêu thích Mustang trên thế giới.
Lần theo thông tin ngân hàng tìm được từ phòng làm việc của Dietz, có vẻ như đúng là Charles đang ở vùng biển Caribê, hoặc Trung Mỹ. Karen nói hai người đã có lúc đi du thuyền đến đây. Viên giám đốc ngân hàng ở đảo Saint Kitts cho Hauck biết có người cũng đang tìm kiếm Charles. Charles cũng sẽ phải đến những ngân hàng này vào một thời điểm nào đó.
Nhưng khi anh lật qua bản danh sách dài dặc, Hauck nhận ra rằng Charles có thể ở bất cứ nơi nào. Nếu anh ta thậm chí còn có thể ở trong bản danh sách này... Anh bắt đầu chầm chậm xem qua bản danh sách.
TIẾP SAU ĐÓ, Hauck nhận được cuộc gọi từ Joe Velko. Viên cảnh sát thuộc Lực lượng Đặc nhiệm Liên ngành này gọi cho Hauck vào buổi sáng thứ bảy khi anh đang làm mẻ bánh nướng cho Jessie, tuần này con bé ở với anh. Khi Jessie hỏi về những vệt đỏ trên cổ và dáng đi khập khiễng của bố, anh bảo con bé rằng anh bị trượt ngã trên thuyền.
“Tớ tìm được một số thông tin cho cậu đây.” - Joe thông báo. - “Cũng chẳng có gì đặc biệt. Tớ sẽ fax ngay cho cậu nếu cậu muốn.”
Hauck đi tới bàn làm việc, ngồi xuống. Anh đang mặc bộ đồ soóc, áo phông, tay vẫn cầm chiếc bàn xẻng rán bánh thì mười hai trang thông tin đã được gửi tới máy fax. "Nghe này.” - Joe nói. - “Tớ không hứa hẹn gì đâu nhé, thường thì bọn tớ có thể tìm kiếm được cả nghìn thông tin có thể dẫn tới manh mối gì đó - và đó chỉ là những thứ chúng tớ đưa qua bên kiểm tra phân tích. Chúng tớ đưa bất cứ thông tin có liên quan nào vào đầu \'cảnh báo’ và sắp xếp thông tin theo tầm quan trọng của chúng. Từ thấp, đến vừa, cho tới báo động cao. Hầu hết các thông tin đều được xếp vào nhóm thấp. Tớ đã dành cho cậu hầu như toàn bộ khối thông tin lưu sẵn và cả phương pháp tìm kiếm. Cậu lật sang mà xem trang thứ ba.”
Hauck lấy một chiếc 乃út và tìm ra thông tin quan trọng. Đó là một hộp vuông mờ, có tiêu đề “Phiên tìm kiếm AF12987543. CẢNH BÁO.”
Joe giảng giải. - “Đây là những thông tin ngẫu nhiên từ thư gửi đến của các trang thông tin mạng mà máy tính thu được từ một cuộc bán đấu giá có tên là Đấu giá xe cổ Carlyle ở bang Pennsylvania.” - Joe tặc lưỡi. - “Chẳng khác nào trong tiểu thuyết trinh thám, Ty ạ. Cậu nhìn xem, ‘Mustang Emberglow đời 1966. Tình trạng: Rất tốt. Ít dùng, 81.5. Sơn bóng! Đuôi thẳng, Westport, Connecticut.’”
“Thấy rồi.”
“Máy tính đã thu được thông tin về chiếc xe và thông tin liên quan là Connecticut. Phiên giao dịch này được thực hiện năm ngoái - cơ bản thì chỉ là một người nào đó muốn hỏi mua một chiếc xe mới. Cậu có thể thấy chương trình đánh giá thông tin xếp loại THẤP cho thông tin này. Có rất nhiều những thứ như thế này. Từ những người vô công rồi nghề ngồi tán gẫu trên mạng. Và tương tự.”
Hauck lật vài trang tiếp theo. Một số thư điện tử. Một chương trình quản lý các giao dịch cá nhân. Có cả đống những thông tin như vậy từ những người hay tán gẫu trên các trang web, blog về xe cổ, trên eBay, và cả Yahoo.com. Bất cứ thông tin nào được ghi lại đều sử dụng những thông tin tìm kiếm Hauck đã cung cấp. Một vài thông tin tìm được trên trang Concours d’Elegance ở Greenwich. Tất cả đều được xếp loại THẤP. Thậm chí còn có cả một ban nhạc ở Texas có tên là Ember Glow của ca sỹ Kinky Friedman. Ưu tiên dành cho thông tin này được ghi là “KHÔNG.”
Toàn bộ có mười hai trang tất cả. Một bức thư điện tử của một anh chàng nói về một cô nàng có tên là Amber, nhận xét rằng "cô nàng lớn nhanh như thiên thần.” Không có thông tin nào về Charles Friedman. Không có thông tin nào từ vùng biển Ca-ri-bê. Hauck thất vọng. Không có thông tin gì thêm từ danh mục những nguời đăng ký với tạp chí Thế giới Mustang.
“Bố?” - Mùi cay xè xông lên mũi Hauck. Jessie đang đứng bên lò nướng đã mở toang, mẻ bánh nướng đang bốc khói.
“Ôi trời! Joe đợi tớ một chút.”
Hauck chạy vội vào bếp lật mẻ bánh đã chuyển sang màu đen vào đĩa. Jessie chun mũi thất vọng. - “Cảm ơn bố.”
"Bố sẽ làm thêm.”
“Có gì khẩn cấp à? ” — Joe hỏi.
“ Ừ, tình trạng khẩn cấp của con bé mười ba tuổi ấy mà. Bố nó đã làm hỏng bữa sáng.”
“ Ừ, cái ấy thì phải ưu tiên thôi. Nghe này, cậu xem lại toàn bộ đi. Đây mới chỉ là phần đầu thôi. Tớ chỉ muốn báo cho cậu biết là tớ đang tiếp tục tìm kiếm. Tớ sẽ gọi nếu có thêm thông tin mới.”
“ Ừ, cám ơn cậu nhé, Joe.”
Karen lái chiếc Lexus vào nhà. Cô dừng lại trước hộp thư, quay cửa kính xuống, với lấy chồng thư gửi đến. Samantha đang ở nhà. Chiếc Acura MPV đang đậu trong ga-ra.
Sam đang học những ngày cuối cùng ở trường, tuần tới con bé sẽ tốt nghiệp. Sau đó con bé và Alex sẽ đi châu Phi, du lịch với mấy người bà con của Karen. Karen cũng muốn đi cùng nhưng kế hoạch đã đuợc lập nhiều tháng trước đây, mà cô thì mới bắt đầu công việc ở đại lý bất động sản, và giờ đây với tất cả những gì đang xảy ra, làm sao cô có thể đi, bỏ lại Ty một mình được chứ? Dẫu sao thì cô cũng cố gắng cân nhắc một cách hợp lý, còn gì có thể tốt hơn việc lũ trẻ tham gia cuộc phiêu lưu với ông bà nội chúng chứ?
Như những mẩu quảng cáo vẫn hay nói. Điều đó là vô giá!
Karen thò tay qua cửa sổ ô tô, với lấy tập thư. Vẫn là những tập hóa đơn, xuất bản quảng cáo và tiếp thị cho các loại thẻ tín dụng nặng trịch. Một vài bức thư gửi đến từ quỹ từ thiện. Một bức thư mời của viện bảo tàng Bruce. Thư viện nằm ngay tại Greenwich này có một bộ sưu tập tuyệt vời các loại tranh của Mỹ và châu Âu. Năm ngoái, Charlie đã được chỉ định vào hội đồng quản trị của thư viện.
Nhìn chiếc phong bì, Karen chợt nhớ tới một sự kiện xảy ra hồi năm ngoái. Cô phát hiện ra nó chỉ hai tháng trước khi Charlie
biến mất. Đó là một buổi tiệc hóa trang sang trọng, Charlie được đặt một bàn. Họ đã mời Rick và Paula, mẹ Charlie từ Pennsylvinia, Saul và Mimi Lennick đi cùng. (Charlie đã động viên Saul tham gia vào một vụ thế chấp tương đối lớn). Karen nhớ Charlie đã phải mặc bộ xì-mốc-kinh và phát biểu một bài tối hôm đó. Cô đã rất tự hào về anh.
Đêm đó cũng có một người khác đã khiến cô phải suy nghĩ rất nhiều. Đó là một người đàn ông người Nga từ thành phố tới. Cô chưa từng bao giờ gặp người này, nhưng Charlie có vẻ như đã quen biết ông ta từ lâu. Charles đã khiến ông ta ủng hộ tới năm mươi ngàn đô la.
Karen nhớ lại, đó là một người đàn ông thực sự hấp dẫn, da ngăm đen, khỏe mạnh, tóc đen và dày. Ông ta vỗ vỗ lên má Charlie như thể hai người là bạn cũ gặp lại vậy, mặc dù Karen chưa từng bao giờ nghe Charlie nhắc tới tên ông ta. Ông ta đã nhận xét rằng nếu ông biết trước Charlie có người vợ đẹp như vậy thì ông ta sẽ rất sẵn lòng ủng hộ thêm tiền. Khi hai người đang trên sàn nhảy, Charlie bảo rằng ông ta là người sở hữu chiếc du thuyền lớn nhất thế giới. Tất nhiên đây là một nhà tài phiệt, Charlie nói rằng đó là một nhân vật quan trọng - một người bạn của Saul. Vợ ông ta đeo một viên kim cương to bằng chiếc đồng hồ của Karen. Ông ta đã mời tất cả mọi người đến chơi nhà ông ta ở vùng đồng quê. Charlie bảo đó phải gọi là một cung điện mới đúng. Điều này khiến cô ngạc nhiên và hỏi; “Anh đến đó rồi sao?” Charlie nhún vai bảo: “Anh chỉ nghe người ta nói vậy” và tiếp tục nhảy. Karen nhớ lúc đó cô đã băn khoăn không hiểu chồng mình gặp người đàn ông đó ở đâu và như thế nào.
Sau đó, khi về nhà, họ đi bộ cùng nhau ra bãi biển vào khoảng gần nửa đêm, vẫn còn trong trang phục dự lễ buổi tối, mang theo một chai sâm banh còn độ một nửa, thay nhau nốc ừng ực như lũ trẻ ranh. Cả hai cởi giày và Charles xắn quần lên. Họ ngồi trên triền đá, nhìn ra ánh đèn xa xa từ Long Island bên kia vịnh rọi tới.
“Anh yêu, em rất tự hào vì anh.” - Karen nói, giọng hơi chếnh choáng vì sâm banh và rượu vang, nhưng đầu óc vẫn hoàn toàn tỉnh táo. Cô vòng tay quanh cổ Charles, hôn anh thật dài, đằm thắm, chân trần chạm cát.
“Một hai năm nữa là anh có thể rời khỏi công việc này,” - Charlie đáp, cà vạt nới lỏng. - “Chúng ta có thể đi đến một nơi nào đó.”
“Em chỉ tin khi nào chuyện đó xảy ra.” - Karen cười. - “Thôi nào, Charlie, anh thích công việc này mà. Hơn nữa...."
“Không, anh nói thật đấy.” - Charles quay sang, khuôn mặt bỗng trở nên u ám, bơ phờ. Trong ánh mắt anh có điều gì đó cô chưa từng bao giờ thấy. - “Em không hiểu được đâu...”
Cô ngồi gần hơn lại phía anh, đưa tay vuốt mái tóc anh khỏi trán. - “Hiểu gì cơ, Charlie?” - Rồi cô lại hôn anh.
Một tháng sau, anh biến mất trong vụ đánh bom nhà ga.
Karen ngồi nguyên trong xe, ngay trước cửa nhà mình, bỗng nhiên phải gắng để khỏi bật khóc. Hiểu gì đây, Charlie?/I] Rằng anh đã giấu em nhiều chuyện trong cuộc sống vợ chồng của chúng ta, thực sự anh là ai? Rằng trong khi mỗi ngày anh tới văn phòng, lái xe tới Costco cùng với em vào cuối tuần, cổ vũ cho Alex và Sam khi chúng thi đấu thể thao, anh vẫn lên kế hoạch rời bỏ gia đình sao? Rằng anh có thể liên quan đến vụ sát hại những con người vô tội kia ư? [I]Vì cái gì kia chứ, Charlie? Từ khi nào? Từ khi nào mà con người em hiến dâng cả cuộc đời mình, cùng nằm bên nhau đã từng ấy năm, ngủ cùng anh, yêu anh với tất cả trái tim - từ bao giờ em phải trở nên sợ hãi con người anh, Charlie? Anh đã thay đổi từ khi nào vậy?
Hiểu gì được đây?
Karen đưa lòng bàn tay lau mắt, rồi gom tập thư và tạp chí trên đùi. Cô vào số, đưa xe vào gara. Chính lúc đó, Karen phát hiện ra một thứ nổi lên trong chồng thư - một chiếc phong bì khổ lớn, màu xám, địa chi gửi cho cô. Cô dừng lại ngay truớc cửa gara, mở chiếc phong bì trước khi bước ra ngoài.
Đó là thư gửi từ trường Đại học Tufts, trường Samantha đăng ký. Tháng tám này con bé sẽ tới đó học. Không có lô gô trên phong bì, chỉ là một quyển hướng dẫn, loại vẫn thường nhận được vào bước đầu của thời gian đăng ký đại học, dùng để giới thiệu về truờng. Mặt trước phong bì có vài dòng chữ viết tay.
Tim cô như ngừng đập khi đọc những dòng đó.