Liễu rủ che mành cửa sổ, đón trăng rơi từng giọt sáng khóc than bạc thếch. Trong Chung Túy cung, hai người ngồi đối diện nhau thẩm trà, tiếng nói như có như không, ngồi đối diện nhau nhưng cả hai đang chìm vào hồi ức của riêng mình.
Dận Minh khẽ thở dài, y đưa tay chạm nhẹ vào cây trâm mộc lan trên tóc khẽ mỉm cười. Trước khi tới, Lệ Nhan đã cài cây trâm này cho y, đôi mắt nàng loang loáng nước, bàn tay nhỏ bé cứ vuốt vuốt nếp gấp ở cổ áo y không chịu buông. Thế rồi đầu nàng cúi gằm xuống, tay buông thõng, y có thể nhìn thấy hàng mi rợp bóng của nàng rung rung, tí tách rơi rớt nước mắt xuống sàn gỗ.
Dận Minh mím môi, muốn chạm vào tóc nàng nhưng lại sợ làm bản thân lưu luyến không rời bước nổi, muốn nắm tay nàng nhưng lại sợ không nỡ buông ra. Cổ họng y nghẹn cứng, thế rồi y cũng khóc, y cúi đầu trùng gối dựa vào vai nàng, lớp phấn son dây bẩn lên y phục nương tử của y.
Lệ Nhan ôm hai má y, cố gắng mỉm cười:
Thi*p không ngờ mình sẽ nói lời này, nhưng… nếu có kiếp sau, chúng ta lại là phu thê được không?
Dận Minh không nhịn nổi nữa, y khóc òa lên, nức nở gọi tên nàng, thề rằng nếu kiếp sau không phải nàng y không kết tóc, không phải nàng y sẽ xuất gia.
Thế rồi y cũng phải đi, tới Cấm Cung lạnh lẽo này, ngồi đối diện với đứa cháu trai đang trên cuộc đua giành ngôi vị thái tử. Là chính y đã bảo Ngung Diễm đào cái hố tham quan của Lăng Lam lên rồi y gánh tội. Bởi y là thần y, y biết mình không sống được bao lâu nữa. Y bảo Ân Đức về Đại Việt tìm cho y một cây thuốc quý, uống vào y sẽ khỏe lại, Ân Đức liền cấp tốc đi, y đã lừa thằng bé, làm sao y có thể để nó chứng kiến cái ૮ɦếƭ của mình cơ chứ?
Sư nương!- Ngung Diễm hơi hoảng khi thấy Dận Minh mở độc dấu trong nhẫn đổ vào chén trà của mình.
Diễm nhi, con còn trẻ, rất trẻ, con còn cả quãng đường rất dài phía trước phải đi. Sau này, nếu sư phụ con có phạm phải lỗi lầm gì, hãy hứa với ta, con sẽ tha. Được không?
Sư nương…- Ngung Diễm quỳ xuống dập đầu ba cái. – Con xin thề!
Diễm nhi, sau này rồi con sẽ phát giác ra một số chuyện, tuy không phải lỗi lầm của con, nhưng hậu quả con vẫn phải gánh chịu… – tiếng Dận Minh nhỏ dần – Ta thật sự rất thương con… – tay y xoa đầu Ngung Diễm và mắt từ từ khép lại.
Ngung Diễm đưa tay áo lau nước mắt, cố lấy bình tĩnh nhưng dường như không thể, tay trái run run hớp một ngụm trà, húng hắng vài tiếng cố đẩy lùi cái nghẹn tức trong cổ họng rồi nói vọng ra ngoài:
Người đâu! Mau tới đây! Hòa phu nhân sợ tội tự sát rồi!
Mấy năm nay Lăng Lam cứ bệnh tật liên miên không dứt, nàng nghĩ sinh mệnh mình chắc cũng sớm tắt ngúm ngay thôi. Khi Dận Minh nói y bị bệnh không chữa nổi, nàng đã nghĩ y nói đùa. Dận Minh là thần y, làm gì có bệnh y chữa không nổi. Trước đó Dận Minh đã từng khoác lác rất nhiều thứ, nhưng lần này y nói thật. Nàng không biết việc không để Ân Đức gặp mặt y lần cuối có phải tàn nhẫn hay không, nhưng Dận Minh đã muốn vậy thì nàng đành nghe theo. Lời người sắp ૮ɦếƭ là thánh chỉ. Sau cái ૮ɦếƭ của em trai, nàng thường xuyên cảm thấy dường như y vẫn còn quanh quẩn đâu đây, cảm giác giống như y chỉ đi khám bệnh xa nhà như hồi trước, dăm bữa nửa tháng rồi sẽ về. Ngày nào nàng cũng ra mộ Dận Minh ngồi nói chuyện, nói nàng hôm nay ăn mấy bát cơm, nói con gái y đã không còn tè dầm, nói Ân Đức lại đọc hết mấy quyển sách thảo dược nữa, nói con sơn ca mà y yêu quý nhất nàng đã thả đi rồi,…
Trong lòng nàng cảm thấy rất lạ, khóc cũng không nổi, rõ ràng là ngồi sát bên cạnh mộ y thế này, ngày nào cũng vào phòng y ôm ấp đống chăn gối y để lại, gần như thế, cảm giác như y vừa đi lướt qua sau lưng nàng nhưng khi quay người lại thì lại không thấy y đâu. Giống như nàng đã bỏ lỡ khoảnh khắc ấy, đã đánh mất nó.
Nàng đã chuẩn bị tâm lí sẽ không còn y bên cạnh. Nhưng nàng không nghĩ nó lại đến sớm như thế. Cho dù biết trước nhưng vẫn thấy vô cùng đột ngột. Nàng thường ngồi ngẩn người nghĩ lại những hồi ức cũ, khi cả hai vẫn còn nhỏ. Khi ấy phụ mẫu đều không có nhà, hai chị em thì đã đói bụng, nàng liền sai Dận Minh chui vào chuồng gà một nhà nông phụ trộm trứng rồi mang về cho mình. Hai người phải cùng bê mới đặt được cái nồi lên bếp. Dận Minh ngồi dưới quạt bếp lò, nàng kê ghế rồi đứng lên trên đảo trứng và hành trong nồi thành thứ tạp nham gì đó. Tới khi mặt cả hai đều đen thui vì bụi củi thì nàng mới nấu xong một nồi cơm sống và ba quả trứng chín. Chắc hẳn hai thứ ấy mùi vị kinh lắm nhưng giờ nàng không nhớ nổi vị ấy nữa, nàng chỉ còn nhớ mỗi khuôn mặt nhem nhuốc của Dận Minh, da đen sì bám bẩn và nụ cười sáng lóa:
Tỷ, em ném khoai vào trong bếp tận dụng củi luôn đấy. Chỉ có một củ thôi, em không đói, tỷ mau ăn đi.
Hồi đó Dận Minh mới được mấy tuổi chứ, vậy mà đã biết nói dối nhường cho nàng. Nhường nhau mãi, cuối cùng hai chị em mỗi người một miếng ăn hết củ khoai con xíu. Chẳng dính bụng nhưng nàng khi ấy đã nghĩ hai chị em cả đời cứ sống với nhau như thế này thì thật tốt. Nếu được thế thì thật tốt…
Khi Ân Đức về tới Bắc Kinh thì Dận Minh đã nằm yên trong lòng đất được 2 tháng. Thằng bé nhảy xuống ngựa, chạy vào trong phủ, tay nâng niu hộp gỗ đựng cây thuốc quý, chạy thẳng tới phòng Dận Minh. Thấy không có ai, nó lại tới phòng Lăng Lam.
Mẹ, xem con mang về gì này! – thằng bé cười, đôi mắt cong cong.
Lăng Lam nhìn nó, dang tay ra muốn con ào vào long mình nhưng cơn ho ập tới khiến tim phổi nàng như sắp nổ ra. Ân Đức vỗ vỗ lưng cho nàng, đợi Lăng Lam hết ho, nó liền hứng khởi hỏi:
Mẹ, cậu đâu rồi ạ?
Không khí đông cứng lại khi Lăng Lam cố nói cho Ân Đức hiểu.
Con ngựa của thằng bé phi qua bờ sông xiết, phi qua rừng trúc, phi qua cánh đồng hoa tới bên mộ Dận Minh. Ân Đức ngã khỏi ngựa, mặt nó áp lên nền đất nhão nhoẹt bùn. Nó nhìn chăm chăm vào bia mộ đề tên cậu mình, đẩy đám binh sĩ gác mộ ra, dùng tay cào từng lớp đất lên, miệng lẩm bẩm:
Họ đều nói cậu ૮ɦếƭ rồi, làm sao cháu tin cơ chứ? Trong quan tài ẩm mốc chật chội như thế, cậu nằm đó làm gì? Cậu thích xa hoa mỹ lệ cơ mà, cậu cứ yên tâm, cháu sẽ đưa cậu ra.
Đám binh sĩ hốt hoảng kéo thằng bé ra nhưng nó không chịu, la hét, đấm đá cào cấu. Đôi bàn tay non nớt của nó bấu chặt lấy từng nắm cỏ cạnh mộ, tai nó nghe thấy tiếng mọi người gọi nó dừng lại, đầu nó đau như có hai người thi nhau nện 乃úa vào. Nó run rẩy chạm tay vào đám đất nhô lên ấy, thì thào:
Cậu ơi, đầu cháu đau quá, cậu là thần y, cậu mau chữa cho cháu đi…
Tới khi Lăng Lam đuổi kịp tới nơi, một nửa lớp đất đã bị Ân Đức cào lên, lòng bàn tay nó bị mảnh gỗ cứa nát đầm đìa máu, nàng sợ hãi ôm con vào lòng nhưng thằng bé đẩy nàng ra:
Mẹ lừa con, cậu cũng lừa con, hai người nói chỉ cần đem cây thuốc đó về thì bệnh cậu sẽ khỏi, cậu sẽ không sao nữa, mẹ lừa con, cậu cũng lừa con, hai người lừa con,…
Ân Đức – Lăng Lam nghẹn ngào – Mẹ xin lỗi, mẹ xin lỗi, là tại mẹ, là lỗi của mẹ, là mẹ đã không ngăn cậu con, là tại mẹ, tất cả là tại mẹ,…
Ân Đức tựa đầu vào vai nàng, hai hàng nước mắt của nó cứ lằng lặng chảy, ánh nhìn đăm đăm vào tấm bia mộ lạnh ngắt khắc tên Dận Minh:
Cậu ơi, đầu con đau, tay đau, tim cũng đau quá. Cậu mau chữa cho con đi. Sao cậu không trả lời? Cậu không cần Ân Đức nữa sao? Chẳng phải cậu nói cậu yêu con sao? Con biết đi đâu để nhìn thấy cậu lần nữa bây giờ? Cậu ơi… cậu nói cho con biết đi. Con đã làm sai điều gì, con sẽ sửa, sẽ sửa mà, cậu đừng không cần con, cậu ơi…
Sau cái ૮ɦếƭ của Hòa phu nhân, danh tiếng của Gia Thân Vương trong lòng dân cao vọt, nhiều nhân sĩ có tài đều đến phủ muốn phò tá vị Vương gia này. Riêng quan hệ của hai thầy trò họ thì lại xấu không thể tả. Phải biết là vụ án các phu nhân quan lại nhận hối lộ này đã bị xới tận gốc, làm cho không chỉ nương tử kết tóc se tơ mà cả tay chân của Hòa trung đường rụng cũng không ít. Càn Long có không biết bao nhiêu aka, nếu không nhờ Hòa Thân nâng đỡ từ nhỏ, vị Vương gia không được lòng mẹ đẻ này đã bị Tử Cấm Thành nuốt chửng không nhả xương từ lâu. Nay lại xảy ra cớ sự như thế, thật khiến Hòa trung đường nuốt không trôi, ốm nặng, viết sớ muốn cáo quan về quê nhưng lại không được hoàng thượng phê chuẩn. Trên dưới Kinh thành ai mà không biết Hòa Thân là nam sủng mà hoàng thượng chiều chuộng nhất, cho dù ngài ta có đau thương độ nào, hoàng thượng cũng sẽ dùng mọi cách dỗ cho ngài ta vui vẻ mới thôi. Thăng quan, tăng bổng lộc, đày ải những vị quan viết sớ đòi xử tội Hòa Thân,… nhưng tất cả đều không lấy được nổi một nụ cười của mỹ nhân. Càn Long cũng dần nản lòng, cho Hòa Thân nghỉ dưỡng bệnh hai tháng không cần vào trầu sớm.
———————o0o———————
Thành Phú Xuân, năm Quang Trung thứ tư.
THÁI GIÁM ĐẠI QUAN - FREESIA PHAN
THÁI GIÁM ĐẠI QUAN – FREESIA PHAN
Lê Ngọc Hân dẫn đứa em gái Ngọc Bình tới trước mặt Hồ Bình, tỏ ý muốn để con bé kết bạn với Quang Toản, nói rằng dù sao hai đứa bé cũng bằng tuổi, thân phận lại tương xứng, có thể kết làm thanh mai trúc mã. Hồ Bình chấp thuận.
Người hầu bế Quang Đức tới bên cạnh Ngọc Hân. Thằng bé đã được hai tuổi nhưng nói lại không nhiều mấy, chỉ bi bô những lời vô nghĩa đòi nghịch cái chén trên bàn, Ngọc Hân cũng không để ý. Nàng ta đang mải suy nghĩ về lá thư mà mật thám nhà Lê còn sót lại đưa tới. Hay ho làm sao, Nguyễn Quang Toản trên danh nghĩa là con Phạm Liên nhưng thực ra lại là con của Nguyễn Nhạc. Ngày ấy khi hai huynh đệ còn thân thiết, thấy Phạm Liên không có con ngày càng héo hon buồn tủi, Nhạc liền đưa đứa con của mình với một cung nữ khó sinh mà ૮ɦếƭ tới cho nàng nuôi dưỡng.
Ngọc Hân biết rằng Hồ Bình đã lập chiếu thư truyền ngôi cho Quang Toản đề phòng bất trắc, vậy nên nàng mới đưa em gái tới nhăm nhe vị trí Chính cung Hoàng hậu sau này. Nàng ta cần đảm bảo vị trí vững chắc cho họ Lê trong triều đại Tây Sơn để đề phòng bất trắc. Lịch sử qua các triều đại cho thấy, tới giờ Hồ Bình vẫn chưa đuổi cùng Gi*t tận con cháu họ Lê là để giữ cái mác “nhân nghĩa” trong lòng dân. Vụ đánh anh đòi Gi*t mấy năm trước tới giờ vẫn làm dân chúng hoảng hốt khi nhắc lại, nếu giờ lại thêm đem toàn tộc họ Lê ra khử từng người thì chắc chắn sẽ là tự đội cái mũ hôn quân lên đầu rồi. Không thể biết trước khi nào vua họ Nguyễn cảm thấy những kẻ vua chúa đời trước này đang ngáng chân mình mà tiện tay trừ khử, vậy nên một vị hoàng hậu là công chúa triều trước vẫn đảm bảo an toàn hơn.
Từ khi về Đại Việt, Hồ Bình càng ở lại thư phòng nhiều hơn, nàng nghe nói chàng đã có động thái chọc tức Càn Long sâu sắc. Xin cưới công chúa Mãn Thanh làm vợ bé, đòi cắt đất Lưỡng Quảng, nói rằng đó là đất của Đại Việt thời Triệu Đà, nhưng điều đáng kinh ngạc là cả hai điều này Càn Long đều đã phê chuẩn.
Ngọc Hân Ϧóþ trán suy nghĩ, nếu không nhầm thì lực lượng hải phỉ khắp Đông Á mà Hồ Bình thao túng đang tập trung làm nhiễu loạn vùng biển biên giới, giả làm quân Thanh xâm phạm vào vùng biển của Nhật hoàng nhằm dấy lên chiến tranh hai nước, còn trong lòng Trung Nguyên chàng lại giật dây cả Thiên Địa hội lẫn Bạch Liên giáo khiến Càn Long trở tay không kịp. Giờ nếu Hồ Bình đòi thêm cả vùng Giang Nam, lấy thêm hai vị cách cách làm cung nữ rót trà nước chắc chắn Càn Long vẫn phải đồng ý.
Ngọc Hân có hơi sợ hãi, nếu như nàng phải đối chọi trực diện với Hồ Bình thì không mảy may nghi ngờ là sẽ thất bại. Nhưng nàng muốn đưa Quang Đức lên làm thái tử để đảm bảo tương lại không diệt vong của họ Lê, như vậy là trái ý Hồ Bình. Nếu chàng phát hiện ra ý định này, phải chăng kết cục của nàng sẽ rất thảm? Thật may là triều đình Tây Sơn còn non trẻ nên Hồ Bình vẫn đang bận túi bụi với việc kiến thiết đất nước, tổ chức khoa cử, tổ chức quân đội, đúc tiền, giảm thuế, chia lại ruộng đất để đảm bảo không có ruộng bị bỏ hoang và giảm sự chênh lệch kinh tế giữa các tỉnh, ngoài ra còn cho dịch các loại sách có giá trị về đạo đức và văn chương ra chữ Nôm để phổ biến rộng rãi cho người dân, xóa nạn mù chữ, nâng cao văn hóa cho toàn dân. Quả thật là bận bịu trăm bề, thật là may mắn cho nàng, nhưng cái xui xẻo chính là quân phiến loạn mà Hồ Bình phái người đi dẹp đa số đều là cựu thần triều Lê. Nhìn xem họ Lê đang sống yên ổn như thế này, đám trung thần ấy lại muốn khuấy nước trong thành ᴆục, cầu mong là Hồ Bình không “giận cá chém thớt” với nàng. Lúc mang Ngọc Bình tới hỏi ý kiến Hồ Bình, tim nàng đã đập như trống. Nghe nàng trình bày xong, chàng đã nhìn nàng không chớp mắt khiến mồ hôi tay Ngọc Hân rịn ra không ngớt. Hồ Bình quay đầu đi rồi phẩy tay cho nàng đi:
Nếu làm vậy nàng thấy yên tâm hơn, thì làm đi.
Chàng biết. Chàng biết ý định của nàng rồi phải không?
Đang suy nghĩ miên man thì nàng nhìn thấy phía hồ rộng lớn kia, một cụm lá sen đang lay động. Hướng mắt tới nhìn kĩ thì thấy Hồ Bình đang ngồi trên một con thuyền nhỏ một mình, nhẹ nhàng khua mái chèo, rẽ nước về phía nàng. Bước vào đình, chàng hỏi han tình hai đứa trẻ vài câu rồi cho cung nữ đưa Quang Đức lui xuống. Tới lúc ấy Hồ Bình mới đưa cho Ngọc Hân một cái lắc tay be bé, mở miệng:
Cái này là cho Ngọc Bảo. Cho dù con bé là nữ nhi, không giúp được gì trong đại sự chấn hưng gia tộc của nàng, thì nàng cũng nên quan tâm nó một chút.
Nghe tới đó, Ngọc Hân liền cứng đờ, mồ hôi lạnh rỉ ra đầy trán, giọng nàng khô khốc:
Thi*p đâu có bỏ bê…
Hồ Bình thở dài, đứng dậy:
Ta đã bỏ qua cho nàng rất nhiều lần vì Ngọc Bảo. – Nói tới đây, chàng dừng lại một chút rồi môi lại mấp máy. – Lê Ngọc Hân, nếu nàng còn một lần liên lạc với Càn Long, ta cũng không ngại chém từng cái đầu mang họ Lê nhà nàng rụng xuống.
Dứt lời liền nhấc chân đi, bỏ lại Lê Ngọc Hân đang run lẩy bẩy, sống lưng lạnh toát.
Chú thích:
Lê Ngọc Bình (1783 – 1810), là con gái út của vua Lê Hiển Tông, mẹ của Ngọc Bình và mẹ Ngọc Hân là người cùng quê. Lê Ngọc Bình sau này là hoàng hậu của Nguyễn Quang Toản.
Hải phỉ: Hải tặc, ςướק biển. Quang Trung còn từng dùng hải phỉ trong quân đội của mình để đối phó với giặc. Sau này thì dùng hải phỉ như một công cụ thao túng vùng biển Đông Nam Á lẫn Đông Á. Đám hải phỉ này thời đấy chuyên gây rối loạn phía gần Nhật Bản và Đài Loan bây giờ.
Trong thời gian kiến thiết đất nước, Quang Trung đã lập Sùng Chính viện, thỉnh La Sơn Phu Tử (Nguyễn Thi*p) làm Viện trưởng, vời các nhân sĩ giỏi chữ Nôm và chữ Hán để dịch các tác phẩm nổi bật ra chữ Nôm giúp dân chúng đọc hiểu. Chữ Nôm đã xuất hiện từ lâu nhưng mãi đến đời nhà Hồ (1400-1407) mới được các cơ quan chính quyền dùng. Nhà Hồ mất, chữ Nôm cũng mất địa vị theo. Tới vua Quang Trung thì chữ viết của riêng Việt Nam mới được phục hồi chân giá trị.
Vua Quang Trung muốn lấy đạo Nho làm quốc giáo. Ðối với đạo Phật nhà vua vẫn ngưỡng mộ, song rất ghét những người lợi dụng chùa để trốn xâu lậu thuế, để không làm mà có ăn. Nhận thấy làng nào cũng có chùa, mà phần nhiều thầy chùa ít học, không mấy người hiểu thấu đạo lý cao sâu của đức Thích Ca, chỉ mượn tiếng tu hành để ký sinh vào xã hội, nên nhà vua xuống chiếu bắt bỏ những chùa nhỏ ở các làng. Mỗi huyện hoặc mỗi phủ được cấp gỗ gạch để xây một ngôi chùa đồ sộ khang trang, rồi chọn những tăng ni có học thức, đạo đức đến trụ trì. Còn những nhà sư đội lốt tu hành đều bắt phải hoàn tục, lo bổn phận người dân.
Các đạo khác như Lão giáo, Ma Ní giáo… được tự do truyền bá. Thiên Chúa giáo cũng không bị ngăn cấm.
Mùa xuân năm Tân Hợi (1791) Vua Ai Lao (tức nước Lào ngày nay) không chịu triều cống, Vua Quang Trung lại sai Trần Quang Diệu đem quân sang vấn tội. Quân Ai Lao sợ hãi xin hàng. Từ ấy hết lòng thuần phục. Vua Miến Ðiện (tức Myanmar ngày nay) hay tin liền sai sứ sang Việt Nam thông hiếu.