Lang thang trong thảo nguyên không một bóng người được hơn hai ngày, Hạng Thiếu Long đã trải qua những nỗi đau khổ nhất đời.
Mấy ngày gần đây chỉ ăn toàn trái cây dại, lại nhờ các loại thảo dược trên núi nên vết thương không bị viêm và lan rộng, vết thương cũng dần dần lành lại, lúc này gã bắt đầu có sức nên cũng bắt được thỏ hoang để bổ sung nguồn thực phẩm.
Theo lời chỉ dẫn của Đào Phương, ban ngày thì nhìn mặt trời, ban đêm thì xem ánh sao, tiến về phía Hàm Đan. Hôm ấy lại gặp phải ngọn núi, nhìn sườn núi cheo leo không thể trèo được, chỉ có một cách duy nhất là đi vòng qua, nào ngờ đi hơn mười ngày mà vẫn chưa qua khỏi.
Cho đến khi rời khỏi nói, thì đã sức cùng lực kiệt, ngay cả kiếm cũng bị gãy, đang lúc lo lắng không biết làm thế nào, thì lại phát hiện trong rừng có một quan đạo, nên vui mừng ra mặt, cứ men theo con quan đạo ấy mà đi, lúc này đôi giày của gã cũng đã rách bươm.
Trên đường đã gặp hai nhóm thương nhân thấy bộ dạng tiều tụy của gã, bọn chúng đều vội vàng đi không hề để ý đến gã. Hạng Thiếu Long than cho tình người ấm lạnh, lại đi thêm ba ngày, cuối cùng đã đến được thành Võ An thuộc nước Triệu.
Lúc ấy buổi tối trời chuyển lạnh, lạnh đến nỗi gã run lập cập, khi định vào thành thì bị quân Triệu đuổi ra, gã mới biết kẻ vào thành phải nộp quan thuế lại phải kiểm tra giấy tờ, đừng nói gã không một đồng xu, chỉ dáng vẻ như một tên ăn mày cũng đã khó vào thành.
Hạng Thiếu Long không ngờ mình lại trở thành một kẻ lang thang, may mà gã đã được huấn luyện quân sự nên lòng dạ cũng kiên nghị, không hề chán nản, ở ngoài thành đợi cơ hội.
Gã tính toán sau khi vào thành sẽ đánh cắp, hoặc lừa bịp hay ςướק giật quần áo, thức ăn và một thớt ngựa, hỏi đường đến Hàm Đan tìm gặp Đào Phương để kết thúc chuỗi ngày khốn khổ này.
Đêm ấy gã phải ăn quả trái cây dại để qua cơn đói, rồi ngủ lại trong lùm cây bên vệ đường.
Không biết bao lâu, gã bị đánh thức bởi tiếng bánh xe.
Gã mở mắt ra thì thấy một đoàn xe la chở cừu, gã vui mừng thừa lúc không ai chú ý, chui vào trong chiếc cuối cùng, chen với đám cừu trốn vào thành.
Đây là một thành lớn của nước Triệu thời Chiến Quốc, thành cao hào sâu, nhà cửa rất quy mô, người đông, nhưng nữ nhiều nam ít, Hạng Thiếu Long nghĩ bụng đó chắc chắn là hậu quả của trận Trường Bình, Bạch Khởi đã chôn sống bốn chục vạn quân Triệu.
Không biết có nghề nam kỹ hay không, nếu có, thì với khả năng của mình, gã có thể kiếm bộn tiền để mua ngựa tốt áo đẹp đến Hàm Đan. Nghĩ tới đây, gã cảm thấy tức cười, nhảy xuống xe.
Người trên đường thấy gã đều lộ ánh mắt khinh khi.
Hạng Thiếu Long sờ râu trên mặt, suýt chút nữa khóc rống lên. Trước khi vào thành, trong lòng còn có một mục đích, ấy là làm cách vào để vào thành, nhưng giờ đây đã ở trong thành, lại không biết làm gì mới phải.
Gã cảm thấy tủi thân nên lẩn vào một ngõ khuất, nhưng lại bị đám trẻ đang chơi trong sân phát hiện, chúng đuổi theo trêu ghẹo gã như một quái vật, có đứa thậm chí còn ném đá vào gã.
Khi gã quay đầu hù dọa, đám trẻ chạy tán loạn, trong đó một tiểu nữ đồng chạy không kịp nên té nhào xuống đất. Khi Hạng Thiếu Long cúi xuống đỡ nó dậy, đứa trẻ hoảng sợ khóc òa lên.
Thế là một đám đông cầm gậy gộc la hét đuổi đánh gã.
Hạng Thiếu Long không muốn ra tay, nên chỉ bỏ chạy, cuối cùng lần vào một ngôi miếu hoang, bỗng nhiên có bước chân vọng tới, gã vội nấp sau bức tượng.
Làm thế nào đây? Thà quay về thôn Tang Lâm tìm Mỹ Tàm Nương, sống hết đời nơi sơn cốc cho xong, nghĩ đến đó quả đúng là anh hùng khí đoản.
Bỗng nhiên trong miếu có thêm một người.
Hạng Thiếu Long ngạc nhiên nhìn ra, thì ra là một người đàn ông trung nhiên mặc áo gai, chân trần, chả trách nào gã không nghe được bước chân.
Người ấy thân hình cao lớn, cũng cao gần bằng gã, khuôn mặt chất phác, hiền lành, nhưng hai mắt có thần, ngoài mái tóc được bới lên, người này rất giống với một người xuất gia tu khổ hạnh.
Hai người nhìn nhau chằm chằm.
Người ấy bước đến phía trước Hạng Thiếu Long, cúi người xuống hỏi: “Vị huynh đài này từ đâu đến?”
Hạng Thiếu Long không biết đối phương có ý gì, nên trả lời: “Bỉ nhân vốn đến Hàm Đan thăm bà con, bị lạc đường, mới đến đây, nếu đại gia chịu khó cho bỉ nhân biết đường đến Hàm Đan, thực cảm kích vô cùng”. Lúc này lời nói của gã đã bắt chước bảy tám phần người thời này.
Người ấy mỉm cười nói: “Ta chẳng phải là đại gia gì cả, chẳng qua thấy ngươi khôi ngô khác thường, là nhất biểu nhân tài, tuy lang thang lưu lạc nhưng hai mắt vẫn còn ngạo khí, nên buông lời hỏi dọ. Hãy nói cho ta biết, ngươi có tài gì?”
Hạng Thiếu Long mắng thầm trong bụng, nhưng vì phải hỏi đường đi Hàm Đan, nên gã cố nén giận đáp: “Tôi chẳng biết gì cả, chỉ có một thân sức trâu này, không sợ làm lụng vất vả hay đánh nhau”.
Người ấy lại mỉm cười: “Ngươi biết sử kiếm chăng?”
Hạng Thiếu Long gật đầu.
Người ấy nói: “Hãy theo ta!”
Nói rồi đẩy cánh cửa sau bước ra.
Hạng Thiếu Long bước theo, phía trong có một động thiên nữa, đó là một hậu viện đổ nát, xung quanh là tường cao, giữa là một hồ nhỏ đã khô, góc kia là một căn nhà đá.
Người ấy xách một đôi kiếm gỗ bước ra, ném một thanh cho Hạng Thiếu Long.
Hạng Thiếu Long tiếp kiếm mà giật mình, thanh kiếm này còn nặng hơn thanh kiếm sắt của gã trước kia mấy lần, thanh kiếm ánh lên màu đen tuyền, không biết được làm từ gỗ gì.
Thấy vẻ ngạc nhiên của gã, người ấy nói: “Đây là thanh kiếm được đẽo nên từ hoa lưu mộc nghìn năm, nào! Tấn công ta đi”.
Hạng Thiếu Long múa hai đường kiếm, rồi lắc đầu: “Không! Ta e làm bị thương ông”.
Mắt người ấy ánh lên tia tán thưởng, cười rằng: “Nếu kiếm của người có thể chạm vào áo của bổn nhân, bổn nhân sẽ lập tức tặng bản đồ lên Hàm Đan và quần áo mới cho ngươi”.
Hạng Thiếu Long vừa nghe đã ngạc nhiên, bụng nghĩ thầm người này còn tự phụ hơn gã, cười ha hả đáp: “Vậy ta không khách sáo nữa”.
Gã xông về phía trước, khi còn cách người ấy năm bước, gã giả vờ xoay người sang trái, sau đó chuyển sang phải, quét ngang ra một đường kiếm, lấy mạnh đấu với mạnh, dùng sức tay để bạt kiếm gỗ của đối phương.
Nào ngờ người ấy đứng im, cổ tay lắc một cái, kiếm gỗ phát sau mà đến trước, bạt mũi kiếm của gã lên trên, tiếp theo đâm mũi kiếm xiên xuống, tựa như muốn đâm mũi kiếm vào mặt Hạng Thiếu Long.
Hạng Thiếu Long thất kinh lùi một bước, kiếm thuật của đối phương thật khó đối phó, nhưng trong lòng vẫn không phục, gã quát lớn một tiếng xông về phía trước như mãnh hổ, đâm liền bảy nhát kiếm như cuồng phong quét lá rơi, thoắt trên thoắt dưới, quét ngang chém dọc.
Người ấy nhếch mép cười, vẫn đứng yên bất động, nhưng dù gã chém ở góc nào, cũng đều có thể bạt kiếm của gã ra, thế kiếm tiếp theo đều bức gã thối lui, không hề tranh sức với gã. Tuy chỉ thủ không công nhưng không thể nào chạm đến hắn được.
Tiếng kiếm chạm nhau cốp cốp không ngừng vang bên tai.
Chém được bảy mươi hai kiếm, Hạng Thiếu Long cuối cùng đuối sức, thối lùi ra sau.
Người ấy kinh ngạc nói: “Thì ra ngươi quả thật không hiểu kiếm thuật, chỉ là dựa vào sức khỏe và sự nhanh nhẹn, như những kiếm sĩ bình thường gặp phải ngươi tất khó tránh được”.
“Ta tự biết ta không bằng ngài, than ôi! Vậy mà ta còn muốn dấn thân trong thiên hạ, thì ra kiếm thuật chân chính lại lợi hại như vậy. Xin cáo từ! Ta sẽ quay về chốn thâm sơn cho xong”. Hạng Thiếu Long trả kiếm lại, nhận thua.
Câu nói cuối cùng quả thật nghe rất rầu rĩ, gã mong muốn về thời đại của mình.
Nếu tỷ thí bắn súng, chắc chắn gã sẽ hơn hẳn kiếm khách này.
Người ấy cười nói: “Xem ngôn hạnh cử chỉ của huynh đài, bần mà không tham, khí độ hơn người, khắc biết là một nhân vật chính nghĩa phi thường. Nào! Hãy tắm rồi thay bộ y phục sạch sẽ, ta sẽ thổi cơm, chúng ta hãy lại cùng nói chuyện với nhau”.
Ăn xong hai bát cơm, Hạng Thiếu Long lấy lại tinh thần.
Sau khi cạo râu, cắt tóc, thay bộ quần áo, Hạng Thiếu Long thay đổi như một người khác, người ấy nhìn với vẻ thán phục lắm, hỏi: “Vừa rồi huynh đài nói phải lập sự nghiệp, chẳng hay sự nghiệp ấy là gì?”
Hạng Thiếu Long ngẩn người, đáp lại với vẻ hơi lúng túng: “Quả thật ta cũng chưa biết rõ, chỉ là tới đâu thì hay tới đó, hiện giờ ta đã có y phục, muốn đổi thanh trủy thủ trong người lấy ít tiền, sau đó mua một thớt ngựa để đến Hàm Đan”.
Người ấy nhíu mày: “Đại trượng phu lập thân trên đời, há có thể không có mục tiêu và lý tưởng, nhân tài tự tạo thời thế mới được tính là một đấng hào kiệt”.
Hạng Thiếu Long không phục, nói: “Vậy ngài có lý tưởng gì?”, “Rất đơn giản, ấy là phải trừ cái hại của thiên hạ để thực hiện cái lợi của thiên hạ”.
Hạng Thiếu Long cười: “Hai câu này thật sơ sài, thế nào là cái lợi và cái hại của thiên hạ?”
Người ấy không lấy làm khó chịu mà điềm nhiên đáp: “Cái hại của thiên hạ, ví như kẻ mạnh xâm lược kẻ yếu, nước lớn xâm lược nước nhỏ, kẻ có trí áp bức kẻ đần độn. Cái gốc của tất cả mối họa này là do người với người không tương ái, nếu có thể tương ái, tương lợi, thì có thể phân chia bình quân tài sản, gạt bỏ lòng đố kỵ oán hận tranh đoạt thì sẽ thực hiện được điều đại lợi cho thiên hạ”.
Hạng Thiếu Long giật mình nói: “Thì ra là ngài là tín đồ của Mặc gia”.
Người ấy ngạc nhiên hỏi: “Thế nào là Mặc gia?”
Hạng Thiếu Long sôi nổi trả lời: “Sư tổ của ngài phải chăng là Mặc Địch, học thuyết của ông ta rất nổi tiếng, cùng xếp ngang hàng với ba nhà Nho, Đạo, Pháp”.
Người ấy nghe xong chẳng hiểu gì cả, nhưng nghe gã nhắc tới tên Mặc Địch, rõ ràng không phải nói bừa, gật đầu nói: “Mặc Địch quả thật là Cự Tử của bọn ta, ngươi quả thật là người ở thôn quê hay sao?”
Hạng Thiếu Long lấy làm lạ hỏi: “Cự Tử là gì, ta không hề biết chuyện này”.
Người ấy nghĩ ngợi một chặp rồi đáp: “Cự Tử là lãnh tụ của Mặc giả hành hội, lúc mới đầu thành lập là hy vọng dùng võ để ngăn võ, nhưng chỉ là thay người khác giữ, không thay người khác công. Đáng tiếc hành hội ngày nay thay đổi quá nhiều, chia thành ba nhóm, theo địa phương, gọi là Tề Mặc, Sở Mặc và Triệu Mặc, bổn nhân là truyền đồ của Cự Tử Mạnh Thắng, lần này xuống núi chính là mong có thể thống nhất ba hành hội lại để cùng phấn đấu cho một lý tưởng”.
Hạng Thiếu Long trầm giọng hỏi: “Chuyện bí mật này sao ngài lại nói ta cho tôi biết?”
Người ấy thở dài rồi nói: “Ta thân mang Cự Tử lệnh, vốn tưởng chuyện trùng chấn hành hội là chuyện dễ như trở bàn tay, nào ngờ khi đến Hàm Đan gặp lãnh tụ Triệu Mặc thì bị đối phương sai người truy sát nên mới trốn đến chốn này, lòng nghĩ thế cô sức yếu, cần phải triệu tập chúng đồ thì mới mong thống nhất tam Mặc, một nhân tài như ngươi đây, ta làm sao có thể dễ dàng bỏ qua”.
Hạng Thiếu Long xua tay lia lịa nói: “Điều này không được, ta tuyệt đối sẽ không liều mạng vì một lý tưởng mãi mãi không đạt thành như vậy. Hãy tin ta đi!
Lý tưởng của Mặc gia vẫn không thể thành công được, sau khi chia bình quân tài sản, ngược lại sẽ có rất nhiều kẻ lười biếng, chỉ có cạnh tranh mới tiến bộ được”.
Người ấy nghe xong giật mình, nhắm mắt trầm tư.
Hạng Thiếu Long hạ giọng nài nỉ: “Hay là hãy chỉ đường cho ta đến Hàm Đan đi, cái ơn cho ăn cho mặc này, Hạng Thiếu Long ta sẽ mãi không quên”.
Người ấy đột nhiên mở ta mắt, ánh mắt như có điện, mỉm cười đáp: “Trên đời há có chuyện không làm mà ăn được, hãy theo ta học kiếm thuật! Khi ngươi công phá cây mộc kiếm trên tay ta, ta sẽ cùng ngươi đến Hàm Đan. Nếu là đại trượng phu thì hãy đáp ứng lời thỉnh cầu của ta! Bằng không dù có tới Hàm Đan gặp phải tay kiếm thuật chân chính thì tất khó thoát”.
Hạng Thiếu Long nghĩ cũng có lý, gã do dự đáp: “Ngài không ép tôi vào cái hành hội gì đó của ngài chứ!”
Người ấy cười: “Không những không ép ngươi vào hội, cả bái sư cũng miễn luôn, chúng ta chỉ là bạn bè. Tên của ta là Nguyên Tông, nếu thích thì chỉ cần gọi ta là Nguyên huynh”.
Vì thế Hạng Thiếu Long ở lại ngôi miếu này, mỗi ngày sớm tối luyện kiếm cùng Nguyên Tông, lại cùng y đàm luận công phòng chi đạo.
Gã tiến bộ nhanh chóng, ngay cả Nguyên Tông cũng phải thán phục, khen ngợi không ngớt, một tháng sau, gã có thể đánh tay đôi với Nguyên Tông.
Mỗi ngày Nguyên Tông đều ra ngoài, chỉ còn lại Hạng Thiếu Long say mê luyện kiếm, đến hoàng hôn Nguyên Tông mới mang thức ăn về.
Ba tháng cứ thế trôi qua nhanh chóng.