Khi đám di dân đầu tiên đến miền tây, phần lớn từ các nông trại nhỏ bên Âu châu, thấy đất đai bao la bát ngát, chỉ cần ký vào một tờ giấy và vạch một cái nền là thành sở hữu của mình, nên lòng tham đất đai của họ không đáy.
Những di dân đến trước này, chiếm những phần đất đai rộng lớn mà họ không bao giờ sử dụng tới. Họ chỉ chiếm đề dành quyền sở hữu chủ. Vì thế chẳng bao lâu tất cả đất đai thuộc vùng đồi hoang gần King-City và San Ardo cũng đều bị chiếm hết và những gia đình thưa thớt sống rải rác khắp các ngọn đồi. Họ tận lực canh tác những vùng đất ít màu mỡ đó để kiếm sống. Họ đến tân lục địa với hai bàn tay trắng không vốn liếng, không dụng cụ, và nhất là hoàn toàn mù mịt về xứ sở mới này. Tôi không biết do sự dại dột phi phàm hay do niềm tin lớn bao la đã dẫn đưa họ tới đây. Nhưng chắc chắn rằng tinh thần mạo hiểm ấy ngày nay hầu như đã biến mất trên thế giới này.
Các gia đình di dân có tồn tại và phát triển. Ho đã có được một thứ khí giới quý báu rất hiếm thấy là giữa cá nhân này với cá nhân kia có sự tin cậy và tôn trong lẫn nhau và họ biết rằng làm như vậy họ sẽ là những phần tử xứng đáng và có một sức mạnh tinh thần tiềm tàng để sinh tồn.
Nhưng trong khi nhiều người đã đến thung lũng Salinas với hai bàn tay trắng, thì cũng có một số người đến đây với tiền bạc dồi dào để tạo dựng một cuộc sống mới. Những người có vốn liếng này đã mua lại những phần đất tốt, dựng nhà bằng những thứ gỗ đã được bào nhẵn, nền trải thảm và cửa sổ Ⱡồ₦g những mặt kính màu lấp lánh như kim cương. Có được những khu đất màu mỡ trong thung lũng, họ dọn sạch lại cải hoang có hoa vàng để trồng lúa mì thay vào đó.
Một người đàn ông tên Adam Trask đã đến thung lũng với bà vợ tên Cathy trong hoàn cảnh đó.
*
Adam Trask đã trưởng thành trong một nông trại ở Connecticut với người em trai khác mẹ là Charles. Cha chàng là ông Cyrus, một cựu chiến binh của cuộc nội chiến và phải đi bằng một chân gỗ, ông là một trong những phần tử cột trụ của tổ chức mệnh danh là G.A.R.
Trong những năm sau cùng của đời mình, ông được cử làm bí thư của tổ chức đó tại Hoa Thạnh Đốn. Với số phiếu cử tri thuộc tổ chức G.A.R. trong tay, ông đã trở thành một người bạn của các vị Tổng thống, một sức mạnh chính trị có thể làm cho các thượng nghị sĩ nếm mùi thất bại.
Hồi Adam còn nhỏ, ông Cyrus Trask quan niệm rằng quân đội là nghề cao quý nhất đối với một nam nhi.
Ông đã tổ chức nông trại của mình, khắc phục bà vợ kế Alice hiền thục và hai cậu con trai theo lề lối quân sự. Ông bắt chúng làm việc phải thật siêng năng, phải đi bộ hàng dặm mang theo túi dết đựng đá nặng nề để luyện cho vai cứng cáp. Ngay từ khi còn bé, Adam chưa hề được hưởng sự vuốt ve âu yếm hoặc được nghe một lời ru ngọt ngào êm ái nào.
Vì mẹ chàng mất sớm lúc chàng còn là một đứa bé sơ sinh. Còn bà mẹ kế của chàng thì lạnh lùng nghiêm khắc. Bà đối xử với cả hai đứa, con ghẻ và con ruột một cách đồng đều công bằng. Bà tắm rửa, cho ăn mặc đầy đủ. Ngoài ra những chuyện day dỗ khác, bà giao hẳn cho cha của chúng. Đối với ông, việc giáo dục con cái là đặc quyền của mình.
Lối giáo dục đó sẽ đưa đến một hậu quả tai hại là khi một đứa bé bắt đầu biết suy xét, khi trong đầu nhỏ bé và nghiêm chỉnh của nó nảy ra ý nghĩ rằng các người lớn không phải luôn luôn khôn ngoan tuyệt đối, rằng những phán đoán của họ không phải lúc nào cũng tuyệt hảo, thì mọi ảo tưởng trong đầu nó sẽ tiêu tan. Những thần tượng đều sụp đổ, niềm tin sẽ lung lay tận gốc rễ. Những thần tượng đó không suy sụp dần dần mà sụp đổ tan hoang một cách thảm hại. Thế giới diễm ảo của đứa trẻ sẽ không bao giờ toàn vẹn trở lại lần thứ hai. Đó là một khủng hoảng đớn đau cho tuổi thành niên.
Cuối cùng Adam cũng nhận ra điều đó ở cha mình. Không phải cha chàng thay đổi thái độ, nhưng tự nhiên ở Adam nảy sinh một cái nhìn mới mẻ.
Chàng thấy không ưa thái độ khắt khe của cha, nhưng ghét thì ghét, chớ không thể tránh hoặc chối từ được, cũng như không ai thích bệnh sởi mà vẫn mắc phải chứng đó như thường. Rồi dần dà, chẳng bao lâu sau, sự chán ghét đó biến thành một ung nhọt trong đầu óc, Adam nhận thấy rằng lối áp dụng kỉ luật nghiêm khắc của ông bố chẳng ích lợi gì cho hai cậu con mà chỉ có giá trị làm cho ông Cyrus thỏa mãn tính ưa chỉ huy của mình, một thói quen có sẵn từ ngày ông còn trong quân đội. Trong đầu Adam đã bắt đầu nghĩ rằng cha anh không phải là một vĩ nhân mà chỉ là một con người nhỏ thó cương nghị mang bản ngã một chiến sĩ khinh kỵ quá khổ với chính mình.
Nhưng Adam là một người con biết vâng lời. Có một cái gì trong anh chống nghịch lại bạo lực, tranh biện chỉ thêm làm mất hòa khí trong gia đình. Adam bất bình bà kế mẫu nhiều điều, nhưng anh chỉ ngấm ngầm chịu đựng chứ không hề để lộ ra ngoài. Anh cố tạo một bộ mặt trầm lặng bề ngoài, trong khi nội tâm anh là cả một thế giới bí mật.
Charles chỉ nhỏ hơn anh một tuổi, đã trưởng thành dưới ảnh hưởng của ông bố một cách tự nhiên, Charles có bản chất một lực sĩ sẵn sàng khắc phục mọi trở ngại để lướt thẳng. Trong bất cứ cuộc đấu trí hay đọ sức nào với anh là Adam, Charles đều thắng một cách dễ dàng đến độ anh không còn bận tâm gì về chuyện đó.
Anh chỉ tìm những đối thủ trong vòng những đứa trẻ đồng lứa khác. Charles hạ hết những đứa trẻ nào ăn Hi*p anh mình. Anh che chở Adam khỏi những nghiệt ngã của cha bằng thủ đoạn nói láo hoặc bằng những lời bênh vực thẳng thắn nếu cần. Charles thương yêu che chở anh bằng thứ tình cảm mà người ta thường có đối với những kẻ tàn tật hoặc đối với trẻ sơ sinh. Tuy vậy đôi lúc anh nổi khùng cách quá đà khiến Adam phải khó chịu.
Adam xem Charles như một hạng người có năng khiếu đặc biệt, gân guốc, mạnh mẽ, lanh lợi khác hẳn mình, đáng thán phục như người ta thán phục sức mạnh tiềm tàng của một con báo đen hoàn toàn không thể so sánh với chính mình. Tuy vậy Adam không hề tâm sự cùng em về những khát vọng riêng tư, những ước mơ thầm kín, ẩn tàng sau cặp mắt đen sâu thẳm của mình. Adam rất hài lòng về Charles và hết lòng thương mến cậu em.
Khi đến tuổi trưởng thành, Adam rất ngại một việc mà không một thanh niên nào có thể tránh được. Anh sợ đến ngày phải nhập ngũ. Cha anh không khi nào chịu để anh quên lúc anh đến hạng tuổi. Ông thường nhắc nhở đến chuyện đó luôn. Ông tin rằng Adam cần được quân đội huấn luyện để trở thành một người đàn ông đúng nghĩa. Còn đối với Charles thì không cần lắm, vì anh này đã thừa nam tính đến độ đáng ngại nữa là khác.
Ông Cyrus thường thân mật giải thích với Adam về thực chất của quân đội, về tư cách của một chiến sĩ, về ảnh hưởng tốt của đời sống quân ngũ, có thể trừ khử được tính nhu nhược yếu đuối, nguyên nhân của mọi thất bại ở một người đàn ông. Ông chỉ nói riêng những điều đó với Adam và cố tránh không để cho Charles nghe.
Một buổi tối ông Cyrus bảo Adam đi dạo một vòng, cuối cùng ông nói:
- Con đã đúng mười tám tuổi. Bây giờ con nên trình diện nhập ngũ là vừa rồi đó.
- Con không thích ba ạ. - Adam vội trả lời ngay.
Cha anh không thèm để ý gì về câu trả lời của anh, ông nói tiếp:
- Con phải đi trình diện ngay. Ba muốn nói thẳng để con khỏi ngạc nhiên. Trước hết người ta sẽ lột bỏ bộ đồ dân sự của con để thay vào bộ đồ đồng phục nhà binh. Chỉ có thế thôi. Ngoài ra họ không làm gì hại đến nhân cách của con cả. Họ sẽ bắt con ăn, ngủ và tập tành theo giờ giấc nhất định cùng với các thanh niên đồng lứa khác. Con phải tuyệt đối tuân theo kỉ luật của tập thể, không được làm khác với đồng đội.
Adam vẫn khăng khăn:
- Con không thích cuộc sống đó.
Ông Cyrus thản nhiên nói tiếp:
- Con nên nhớ rằng con không được nghĩ đến những gì mà người khác không nghĩ đến. Nghĩa là con phải luôn luôn làm và nghĩ như mọi người trong tập thể, không được làm những gì có hại đến tính cách nhất trí của một đoàn thể.
Adam hỏi vặn bố:
- Sao ba không bảo Charles nhập ngũ? Nó sẽ là một quân nhân gương mẫu hơn con chứ?
- Nó chỉ được cái vẻ bề ngoài thôi, - ông Cyrus giải thích, - chứ nó không chín chắn được như con. Charles bạo dạn đến độ liều lĩnh. Đưa nó vào quân đội chỉ tổ làm cho nó liều lĩnh thêm, trong khi nó cần được làm cho thuần bớt đi. Ba không dám xúi nó vào quân đội.
Adam phân bì:
- Ba cưng Charles hơn con, ba để nó được tự do sống theo ý thích chứ không bắt nạt nó như đối với con. Bây giờ ba lại bắt con phải đi lính trong khi nó vẫn ở nhà khỏe ru.
Nói đến đó anh dừng lại sợ mình sẵn đà để cho lòng hằn học lấn át quá lời với cha.
Cha anh không trả lời ngay. Ông bỏ đi về nhà, đầu cúi gầm xuống, dáng suy nghĩ. Khi về đến khoảng sân trước mặt nhà, ông dừng bước ngẩng đầu lên hỏi:
- Adam có đó không?
- Dạ có. Con vẫn ở ngay sau lưng ba.
- Vừa rồi con có hỏi ba một câu hỏi. Ba định sẽ trả lời con đây. Câu trả lời có thể sẽ có ích và cũng có thể vô ích. Ba thấy con có vẻ chậm hiểu. Con không biết cái gì có lợi hoặc có hại cho mình. Con không có được tính cương nghị của một thằng con trai.
Con còn để bị người khác ăn Hi*p mà không phản ứng gì cả. Nhiều lúc ba buồn vì tính nhu nhược cam phận đó của con. Ba nói vậy con đã hiểu chưa?
Ba vẫn thương con hơn hết. Nói ra với con câu đó, ba không muốn chút nào, nhưng đó là sự thật. Ba rất thương con. Đâu có lý gì ba muốn làm khổ con? Ba chỉ nghĩ đến những điều ích lợi cho con. Thôi con câm họng đi, vào ăn tối cho rồi.
*
Chẳng bao lâu sau, ngày kỉ niệm sinh nhật của ông Cyrus, một cuộc khủng hoảng đã xảy đến trong gia đình. Hai cậu con đều tặng quà sinh nhật cho cha. Adam tặng cha một con chó con lai, mà anh bắt được trong rừng để cha nuôi làm chó săn. Còn Charles thì tặng cha một con dao ba lưỡi có lò so và cán nạm ngọc trai để ông có thể làm việc trong nhiều giờ liên tiếp. Ông Cyrus bồng con chó lên tay vuốt ve rồi đem đặt nó vào phòng riêng. Ông nói mấy tiếng cám ơn về con dao Charles tặng, nhưng không bao giờ dùng tới. Charles chua chát càu nhàu: “Ông chẳng bao giờ thèm mò tới!”
Bị chạm tự ái, lòng ganh tị ở Charles mỗi ngày một tăng đến độ làm anh cuồng trí. Một đêm kia gặp Adam một mình trên đường làng, Charles đã đánh anh mình một trận nhừ tử không chút xót thương.
Sau đó, Charles còn chạy về nhà tìm một cái rìu. Nếu Adam không nhanh chân chui xuống ẩn dưới một cái mương bên vệ đường, thì Charles đã Gi*t ૮ɦếƭ anh rồi.
Charles trốn biệt hai tuần lễ sau vụ đó. Khi anh ta lò đò trở về thì cơn giận dữ dội của ông bố đã nguội bớt chỉ còn lại nỗi giận ngấm ngầm. Charles tự chuộc lỗi bằng cách cặm cụi làm việc suốt ngày và âm thầm ân hận.
Sau vụ bị Charles đánh, Adam nằm lì trên giường suốt bốn ngày. Vào ngày thứ ba, cha anh dùng quyền lực của một ông bố, quyết định bắt anh phải nhập ngũ. Ông đưa một vị đại úy kỵ binh và hai trung sĩ bận đồng phục màu xanh biển vào tận giường ngủ của Adam. Tuy nằm trên giường, Adam vẫn được ghi tên gia nhập vào kỵ binh như một tân binh tình nguyện. Cha anh đứng nhìn với cặp mắt đẫm lệ vì cảm động.
Sau khi mấy quân nhân đã ra về, ông ngồi lại bên cạnh Adam một lúc lâu. Ông ôn tồn nói:
- Sở dĩ ba muốn con vào ỵ binh vì ba tin rằng đời sống trong quân ngũ rất có ích đối với con. Kỵ binh là một binh chủng rất tốt. Ba biết rõ điều đó. Rồi con cũng sẽ nhận thấy như ba.
- Vâng, chắc sẽ đúng như lời ba. - Adam nói để cha yên lòng.
*
Đối với những người như Adam mà phải nhập ngũ kể cũng là một chuyện lạ. Bản tính anh ta đâu có muốn tranh chiến như những người đàn ông khác, nhưng rồi dần dần anh cũng phải thích. Vào thời Adam gia nhập lực lượng kỵ binh, cuộc chiến đấu của người da đỏ đã đến giai đoạn kịch liệt, các bộ lạc da đỏ nổi dậy chống lại.
Những toán lính biên phòng thường bị cô lập, thiếu thốn và buồn chán. Đó không phải là một công việc thích thú gì, nhưng rất cần cho đất nước.
Không được sống yên lành với nông trại mà phải gần gũi hàng ngày với cảnh tranh chiến, thương tích đối với Adam thật là buồn chán và vô ích. Càng nhờm tởm bạo lực, anh càng hướng lòng về một chủ đích trái ngược. Đã nhiều lần anh can đảm liều mạng sống xông vào nơi nguy hiểm để cứu những người bị thương, hoặc tình nguyện làm thêm công việc tại bệnh viện dã chiến, dù anh đã phờ người vì những bổn phận thường nhật. Nếu anh có nổ súng vào tên địch nào trong suốt những năm ở trong quân ngũ, thì chẳng qua chỉ là một hành vi tự vệ miễn cưỡng. Nhưng anh không bị liệt vào hạng khi*p nhược. Trái lại anh từng được tuyên dương ba lần và được gắn huy chương anh dũng bội tinh.
Từ nông trại ở quê nhà, suốt trong nhiều năm, Charles thường viết thư đều đặn cho anh, báo tin về cái ૮ɦếƭ của người mẹ kế vì bệnh lao và về việc người cha đã nhận một chức vụ thường trực của tổ chức G.A.R, tại thủ đô Hoa Thạnh Đốn. Charles tuy nói năng không được hoạt bát, nhưng viết thư lại khá hay.
Charles tâm sự hết những đau khổ, nỗi cô độc và những lo lắng của mình. Trong những bức thư trao đổi qua lại đó, tình thân mật đầm thắm giữa hai anh em càng ngày càng đậm đà mà cả hai đều không ngờ lại có thể có được.
Adam vẫn giữ lại một trong những lá thư mà cậu em đã gửi cho mình, vì trong đó có một đoạn có vẻ lạ lùng hơi khó hiểu đối với anh. Cậu em viết: “Tôi không hiểu tại sao ba của tụi mình lại không thích con dao mà tôi đã mua tặng ông vào dịp lễ sinh nhật của ông. Tại sao ông lại có thái độ thờ ơ đến độ đó? Nếu ông sử dụng nó hoặc chỉ cần ông mó tay tới một lần thôi, tôi cũng thỏa lòng. Nếu ông không quá thờ ơ với nó, thì tôi đã không đến nỗi ganh tị với anh một cách điên khùng đến thế.
“Tôi vẫn áy náy trong lòng. Hình như có một cái gì không được ổn lắm. Đáng lẽ tôi không nên ở nhà như thế này.
“Đúng ra tôi phải đi khắp bốn phương trời, thay vì ngồi yên tại nông trại tốt đẹp yên lành này. Đáng lẽ tôi phải ở vào vị trí của anh hiện tại, và anh phải ở nhà. Đúng là không hợp lý chút nào nếu không nói là tréo cẳng ngỗng.”
Adam phục vụ trong quân đội ngót mười năm. Sau năm năm đầu, anh đã thấy quen với đời sống quân ngũ. Các chiến hữu trong tiểu đội của anh rất dễ chịu và đáng mến.
Cha anh bây giờ rất có thế lực tại Hoa Thạnh Đốn muốn vận động để anh được vào học trường võ bị West Point, một quân trường danh tiếng chuyên đào tạo sĩ quan, nhưng anh đã từ chối.
Cuối cùng vào năm 1890, Adam quyết định sẵn sàng trở về Connecticut. Anh được giải ngũ với cấp bậc trung sĩ tại Presidio, San Francisco và đã viết thư báo cho cậu em rằng: “Anh sắp về nhà nay mai.” Nhưng đó là mấy lời cuối cùng Charles nhận được của anh trải qua nhiều năm.
Adam đã nán lại California chờ qua hết mùa đông. Nhưng đến mùa xuân, anh lại hết nhẵn tiền. Anh bắt đầu đi về phía đông, lúc thì đi bộ, lúc thì đi quá giang trên các chiếc xe chở hàng chậm như rùa. Anh giao du với những tay phiêu bạt giang hồ, rất nhiều vào thời đó.
Họ tránh những lúc thời tiết quá lạnh hoặc quá nóng, chỉ di chuyển những khi tương đối mát mẻ. Adam tỏ ra rất thích đời sống giang hồ và hòa hợp với nếp sống đó một cách nhanh chóng. Anh câu cá trong các ao hồ tại California. Làm công việc trong một nông trại lớn gần Denver, học tiếng Tây Ban Nha tại Rio Grande. Anh bị bắt giữ tại Florida vì tội vô gia cư và bị kết án phải làm việc lao động trên một đoạn đường.
Sau đó, anh đào thoát qua tiểu bang Georgia. Nhờ đó anh biết được rất nhiều về nước Mỹ. Cuối cùng một ngày nọ, anh cũng về được tới nông trại của mình ở Connecticut. Trông anh ta gầy ốm và sạm đen. Giọng nói lơ lớ pha nhiều thứ. Tính anh vẫn trầm lặng và kín đáo, nhưng già dặn và không còn vẻ nhu nhược trước cậu em trai nữa.
Charles cho anh biết tin tức gia đình trong thời gian mất liên lạc với nhau.Cha của họ đã qua đời cách đó mấy tháng, để lại cho họ một số tài sản trên 100.000 Mỹ kim.
Ông Cyrus đã làm những việc gì, lương thiện hay bất chính mà có được số tiền lớn lao đó, thì cả hai anh em đều hoàn toàn mù tịt. Lương của ông làm việc cho tổ chức G.A.R mỗi tháng chỉ được một trăm ba mươi lăm Mỹ kim. Charles, người rất thương bố, bây giờ cũng đâm ra nghi ngờ hết sức. Nhưng Adam vốn cảm phục lẫn kính sợ ông Cyrus, nên không hề thắc mắc gì khi nhận phần tiền được chia. Anh hoàn toàn tin chắc cha mình rất lương thiện. Trong khi đó, Charles không muốn cha mình bị ô danh, nên vẫn âm thầm nghi hoặc. Hai anh em Adam và Charles đã trở thành những người giàu nhất vùng.
Adam nói với cậu em:
- Chúng ta sẽ sử dụng số tiền một cách xứng đáng. Chúng ta có thể du lịch sang Âu châu, viếng Ai Cập, đi xem tận mắt tượng thần Sphinx đầu người mình sư tử. Chúng ta có thể đến California. Adam rất thích California.
Nhưng Charles rất ngại không dám tiêu xài số tiền đó. Anh lo xa rằng có thể cha anh sẽ bị điều tra sau này, và lúc đó anh sẽ phải hoàn lại số tiền. Anh chỉ muốn ở lại trong nông trại và người anh cũng ở chung với mình.
Cho đến hồi đầu thế kỉ này, cuộc đời của Adam vẫn âm thầm tẻ nhạt như có một lớp mạng nhện bụi bặm che phủ. Chợt Cathy Ames xuất hiện như một luồng hào quang chiếu rọi vào cuộc đời của anh, làm thay đổi tất cả.
*
Tôi tin rằng trên đời này có ma quỷ len lỏi để phá hoại loài người: đó là loại ma quỉ hiện hình người, và loại ma quỷ siêu hình. Cũng như một đứa trẻ được sinh ra có khi thiếu một tay thì cũng có người sinh ra thiếu lương tâm.
Theo tôi nghĩ thì Cathy Ames thuộc hạng người đó. Có lẽ ma quỷ đã xúi giục và dẫn dắt các hành động của nàng suốt đời.
Điều ác vẫn bám riết lấy nàng, biến cuộc đời nàng thành một bánh xe răng cưa trong một hệ thống bánh xe bị trật khớp. Hoặc như một người què chân dù cố sửa bộ đến đâu để thật giống với một người bình thường, nhưng chỉ càng làm lộ thêm nhược điểm của mình. Cathy lợi dụng vẻ khác biệt của mình để gây những xáo trộn và đau khổ cho những người xung quanh.
Dù bản chất của nàng độc ác và con người của nàng chỉ là một cạm bẫy, nhưng thoạt nhìn ai cũng tưởng nàng hiền lành ngây thơ. Mái tóc vàng óng ánh. Cặp mắt mở lớn với hàng lông mi trên khá dài rũ xuống khiến nàng trông có vẻ mặt mơ màng bí mật. Chiếc mũi nhỏ và thanh tú. Hai gò má cao và rộng vòng xuống chiếc cằm nhỏ xinh xắn.
Chiếc miệng thanh như một nét vẻ và nhỏ nhắn một cách khác thường như một nụ hồng. Nàng có cái vẻ của một đứa bé xinh đẹp khiến người nào khi mới nhìn thoáng qua lần đầu, cũng phải quay lại nhìn thêm một lần nữa, và không khỏi bồi hồi hoang mang. Trong ánh mắt nàng, có một vẻ gì kì bí mà người ta không thấy lại được khi nhìn lần thứ hai. Nàng đi đứng nhẹ nhàng như cái bóng lướt qua và rất ít nói, nhưng mỗi khi bước ngang nơi nào, nàng làm cho mọi người phải ngoái cổ nhìn theo.
Cathy hay nói dối, nhưng nàng không có lối nói dối vô tư như phần lớn các trẻ em khác. Những vụ nói dối của nàng đều có sắp đặt và vụ lợi. Bao giờ nàng cũng nói lơ lững gần sát với sự thật để không ai nghi ngờ gì rồi dựa theo đó nàng chen vào một chuyện không có thật hoặc nàng kể một chuyện thật bằng lối quanh co ỡm ờ như chuyện bịa đặt. Nhờ nghệ thuật đó, nếu có ai nghi ngờ một chuyện nào là dối trá, nhưng rồi chuyện đó lại xảy ra thật thì những chuyện bịa đặt khác của nàng cũng đâm ra có thể là chuyện thật hết.
Từ hồi Cathy còn là một cô bé, mẹ nàng tưởng rằng nàng cũng chỉ như những trẻ em khác, hay nói láo vậy thôi chứ không có gì đáng ngại. Nhưng cha thì không hẳn nghĩ như vậy.
Ông có mở một xưởng thuộc da nhỏ ở một thị trấn thuộc tiểu bang Massachusetts và ông có cơ hội tiếp xúc với nhiều trẻ em khác ở cách xa nơi mình cư ngụ. Ông thấy trẻ con khác dễ thương hơn con gái mình, nên ông hơi buồn về Cathy, nhưng ông không phân tích kĩ làm gì.