Sarbanes-Oxley là một đạo luật không hiệu quả. Một số nhà phê bình nói rằng nó cứng nhắc và không linh hoạt, một số khác nói nó rất mập mờ, không nhất quán, không hiệu quả và quá tốn kém (đặc biệt là đối với các công ty nhỏ). William A.Niskanen, Chủ tịch Viện Cato nói: “Nó chưa triệt tiêu hẳn được nạn tham nhũng mà mới chỉ bắt các công ty nhảy qua các lỗ hổng mà thôi.”
Liệu có biện pháp nào điều trị tốt hơn căn bệnh không trung thực này không?
Trước khi trả lời các câu hỏi trên, tôi sẽ mô tả thí nghiệm chứng minh về vấn đề này. Cách đây vài ngày, tôi, Nina và On đã đưa một nhóm người tham gia thí nghiệm đến phòng thí nghiệm UCLA và yêu cầu họ làm một bài toán gồm hai mươi câu hỏi đơn giản. Mọi câu hỏi yêu cầu người tham gia thí nghiệm tìm ra hai số mà tổng của chúng bằng 10. Họ có năm phút để giải càng nhiều càng tốt và sau đó sẽ được tham gia chơi sổ xố. Nếu trúng thưởng, họ sẽ nhận được 10$ cho mỗi câu trả lời đúng.
Cũng giống như thí nghiệm của chúng tôi ở trường Kinh doanh Harvard, một số người nộp bài làm trực tiếp cho giám thị. Họ là nhóm kiểm soát. Những người khác thì viết số câu trả lời đúng của họ vào một tờ bài làm khác và sau đó hủy tờ bài làm trước đi. Hiển nhiên, họ có cơ hội để gian lận. Liệu họ có gian lận không? Như dự đoán, họ có gian lận.
Mấu chốt của thí nghiệm này là những điều diễn ra trưởc đó. Khi họ đến phòng thí nghiệm, chúng tôi yêu cầu một số người viết tên mười cuốn sách mà họ đã đọc hồi học cấp ba. Những người khác thì được yêu cầu viết mười Lời răn của Chúa.
Theo cách tổ chức thí nghiệm này, những người tham gia được tạo điều kiện gian lận sau khi nhớ lại mười cuốn sách mà họ đã đọc khi còn học cấp ba hoặc mười Lời răn của Chúa. Theo bạn ai sẽ là người gian lận nhiều hơn?
Khi không có điều kiện gian lận, những người tham gia thí nghiệm của chúng tôi đã trả lời đúng khoảng 3,1 câu hỏi.
Khi có điều kiện để gian lận, nhóm người tham gia nhớ lại mười cuốn sách mà họ đã đọc khi còn học cấp ba đạt được số điểm trung bình là 4,1 câu trả lời đúng (hơn 33% so với những người không có điều kiện để gian lận).
Nhưng điều gì xảy ra với nhóm còn lại - những người viết mười Lời răn của Chúa, sau đó làm bài kiểm tra và xé bài làm của họ. Liệu họ có gian lận không - hay mười Lời răn của Chúa đã có tác động nào đó đến sự trung thực của họ? Kết quả khiến chúng tôi vô cùng ngạc nhiên: những người được yêu cầu nhớ lại mười Lời răn của Chúa không gian lận chút nào. Trung bình họ trả lời đúng được ba câu hỏi - số điểm bằng với nhóm không có điều kiện để gian lận và ít hơn so với nhóm có điều kiện để gian lận được yêu cầu nhớ tên 10 cuốn sách.
Điều kỳ diệu nào mà mười Lời răn của Chúa đã khiến các sinh viên không gian lận? Chúng tôi chỉ yêu cầu những người tham gia thí nghiệm nhớ lại chúng (và hầu như không có ai nhớ được hết cả mười Lời răn) với hy vọng sẽ khơi nên tính trung thực trong họ. Thực tế đã diễn ra đúng như vậy. Liệu chúng ta có thể học được bài học nào về cách hạn chế sự không trung thực từ thí nghiệm này? Chúng tôi đã phải mất vài tuần để đi đến một số kết luận.
Một là, chúng ta nên đưa Kinh Thánh quay trở lại với đời sống cộng đồng. Điều đặc biệt gây ấn tượng cho tôi về thí nghiệm với 10 Lời răn của Chúa là những sinh viên chỉ nhớ được một hoặc hai lời răn cũng bị ảnh hưởng như những sinh viên có thể nhớ được mười Lời răn. Điều này chỉ ra rằng, không phải những Lời răn của Chúa đã khuyến khích tính trung thực mà sự suy tưởng về một chuẩn mực đạo đức nào đó đã khuyến khích tính trung thực.
Nếu điều này đúng, chúng ta cũng có thể sử dụng những tiêu chuẩn đạo đức không mang tính tôn giáo để tăng mức độ trung thực. Ví dụ, những lời thề nghề nghiệp mà bác sỹ, luật sư đã tuyên thệ thì sao? Liệu những lời thề đó có gian trá không?
Từ “nghề nghiệp” bắt nguồn từ tiếng La tinh: Professus, có nghĩa là “công khai khẳng định”. Lời thề về nghề nghiệp khởi nguồn từ tôn giáo và sau đó lan rộng sang y tế và luật. Lời thề - được nói và viết ra - là một lời nhắc nhở những người hành nghề phải điều chỉnh hành vi của mình. Các lời thề cũng đưa ra một hệ thống các quy tắc phải được chấp hành.
Vào những năm 1960, một phong trào mạnh mẽ đã diễn ra nhằm bãi bỏ các lời thề nghề nghiệp. Người ta đưa ra lý lẽ rằng những lời thề nghề nghiệp mang tính chất quý tộc và cần phải bị phơi bày ra ánh sáng. Đối với nghề luật thì điều này có nghĩa là phải có nhiều bản tóm tắt hồ sơ kiện tụng viết bằng tiếng Anh thẳng thắn và đơn giản; sử dụng máy quay phim trong phòng xử án. Những biện pháp tương tự nhằm chống lại chủ nghĩa quý tộc cũng áp dụng cho ngành y tế, ngân hàng và các nghề nghiệp khác nữa. Nhiều biện pháp trong số này cũng đã mang lại một số lợi ích. Chủ nghĩa chuyên nghiệp hà khắc được thay thế bằng tính linh hoạt, mềm dẻo.
Ví dụ, một nghiên cứu của tòa án bang California vào năm 1990 đã phát hiện ra rằng phần lớn các luật sư ở California đã chán ngấy tình trạng xuống cấp danh dự trong công việc và “rất bi quan” về thực trạng nghề nghiệp của họ. 2/3 trong số họ nói rằng những luật sư ngày nay đã phải bỏ qua “chủ nghĩa chuyên nghiệp” của mình như một kết quả của áp lực về kinh tế. Gần 80% nói rằng tòa án đã “không trừng phạt thích đáng những luật sư vô nguyên tắc”. Một nửa trong số họ nói rằng họ sẽ không trở thành luật sư nếu được quyết định lại.
Một nghiên cứu so sánh của Marylan Judicial Task Force cũng cho thấy sự chán nản tương tự trong số những luật sư ở bang đó. Theo các luật sư của Maryland, nghề nghiệp của họ đã tha hóa tồi tệ đến mức “họ thường cáu kỉnh, nóng tính, hay tranh cãi và chửi thề” hay “sống thu mình, lơ đãng, mất tập trung”. Khi các luật sư ở bang Virginia được hỏi những vấn đề trong nghề nghiệp của họ là do “một vài con sâu” hay do xu thế chung, phần lớn họ đều trả lời rằng đây là một vấn đề phổ biến.
Các luật sư ở bang Florida bị đánh giá là những luật sư tệ nhất. Năm 2003, Tòa án Florida báo cáo rằng một vài luật sư đang “chạy theo đồng tiền, quá mưu mẹo, lừa lọc, lén lút và không đáng tin; họ xem nhẹ chân lý về sự công bằng, sẵn sàng xuyên tạc, dùng mánh khóe và che giấu sự thật nhằm thắng kiện; kiêu căng, hạ mình và sỉ nhục người khác”. Họ còn “tự đắc và đáng ghét”. Ngành y tế cũng bị chỉ trích. Các bác sỹ thì thực hiện các cuộc phẫu thuật không cần thiết và các thủ tục khác nhằm tăng thu nhập ...
Khi nhìn vào bất kỳ nhóm ngành nghề nào, bạn cũng có thể thấy được các dấu hiệu tương tự. Vậy Hiệp hội các nhà Địa chất học Dầu khí thì sao? Nhìn kỹ bạn sẽ thấy có rất nhiều rắc rối trong đó. Một thành viên của hiệp hội nói với đồng nghiệp: “Có những hành vi trái đạo đức đang diễn ra ở mức độ lớn hơn chúng ta có thể nghĩ”. Đó là những hiện tượng như: sử dụng dữ liệu kỹ thuật số hay địa chấn sai; ăn trộm bản đồ và nguyên vật liệu; thổi phòng về sự hứa hẹn của một mỏ dầu.
Nhưng hãy nhớ là các nhà địa chất học dầu khí không đơn độc. Hiện tượng suy thoái đạo đức nghề nghiệp diễn ra ở khắp nơi.
Vậy chúng ta phải làm gì? Giả sử, thay vì nhớ lại mười Lời răn của Chúa, chúng ta có thói quen ký tên sau mọi lời thề thiêng liêng. Liệu một lời thề có tạo ra sự khác biệt theo cách mà chúng ta thấy mười Lời răn của Chúa đã tạo ra sự khác biệt không? Chúng ta cần phải tìm ra câu trả lời - vì vậy chúng tôi tiến hành thí nghiệm tiếp theo.
Trong thí nghiệm này, nhóm đầu tiên sẽ làm một bài toán ma trận và nộp câu trả lời của họ cho người tổ chức thí nghiệm (người này sẽ đếm câu trả lời đúng của người nộp bài và thưởng cho họ số tiền tương ứng). Nhóm thứ hai cũng làm bài kiểm tra như vậy nhưng các thành viên trong nhóm được yêu cầu giữ lại bài làm của họ, sau đó nói cho người tổ chức thí nghiệm biết là họ đã trả lời đúng bao nhiêu câu hỏi. Người tiến hành thí nghiệm sẽ thưởng cho họ số tiền tương ứng.
Đối với nhóm thứ ba, trước khi bắt đầu thí nghiệm, mọi người được yêu cầu ký vào tờ bài làm của họ có câu: “Tôi hiểu rằng nghiên cứu này nằm trong hệ thống danh dự của MIT”. Sau đó, họ tiếp tục với nhiệm vụ. Khi hoàn thành, họ cất tờ bài làm của mình vào trong túi, đi lên phía đầu lớp và nói với người tổ chức thí nghiệm số câu họ trả lời đúng và nhận số tiền tương ứng.
Kết quả là gì? Trong điều kiện kiểm soát, những người tham gia thí nghiệm trả lời đúng trung bình khoảng 3/20 câu hỏi. Ở điều kiện thứ hai, trong đó những người tham gia thí nghiệm có thể cất tờ bài làm của mình, họ khai là trả lời đúng trung bình 5,5/20 câu hỏi. Điều gì nổi bật ở trường thứ ba - trong đó những người tham gia được cất tờ bài làm của mình và ký lời tuyên thệ về Quy tắc Danh dự. Họ nói rằng họ đã trả lời đúng trung bình ba câu - bằng với con số của nhóm kiểm soát. Hiệu quả của việc ký lời tuyên thệ về Quy tắc Danh dự thật đáng ngạc nhiên, khi thực tế là trường MIT không có một quy tắc danh dự nào.
Vì vậy, chúng tôi phát hiện ra rằng con người thực hiện hành vi gian lận khi họ có cơ hội nhưng họ không gian lận nhiều như họ có thể. Hơn nữa, ngay khi họ nghĩ về sự trung thực - bằng cách nhớ lại mừoi Lời răn của Chúa hay ký một lời cam kết đơn giản - họ sẽ dừng hành vi gian lận ngay lập tức. Nếu chúng ta được nhắc nhở về đạo đức vào thời điểm chúng ta bị lôi cuốn, thì khi đó chúng ta có nhiều khuynh hướng trung thực hơn.
Hiện tại, nhiều tòa án bang và các tổ chức chuyên nghiệp đang vực lại các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp của họ. Một số tổ chức thì tăng cường các khóa học ở trường cao đẳng hay đại học; các tổ chức khác thì mở các lớp học đạo đức và bồi dưỡng đạo đức. Trong ngành luật, thẩm phán Dennis M. Sweeney của quận Howard (Maryland) đã phát hành cuốn sáchGuidelines for Lawyer Courtroom Conduct (Hướng dẫn hành xử trong tòa án cho thẩm phán) trong đó ông nhận định. “Hầu hết các quy tắc, giống như thế này, chỉ đơn giản là những điều mà các bà me của chúng ta sẽ nói với một người đàn ông hay một người phụ nữ lịch sự nên làm gì. Do họ còn có nhiều trọng trách khác nữa và các bà mẹ của chúng ta không thể có mặt ở tất cả các tòa án ở Mỹ, nên tôi đưa ra những quy tắc này”.
Liệu những biện pháp chung như vậy có đem lại hiệu quả không? Đọc lời tuyên thệ và cam kết trung thành với quy tắc thôi thì chưa đủ. Từ thí nghiệm của chúng tôi, rõ ràng là lời thề và các quy tắc phải được nhớ lại vào trước thời điểm chúng ta bị cám dỗ. Một khi đạo đức nghề nghiệp (tiêu chuẩn xã hội) đã suy thoái thì lấy lại chúng không hề dễ dàng.
Điều này không có nghĩa là chúng ta không nên cố gắng. Tại sao tính trung thực lại quan trọng đến như vậy? Đừng bao giờ quên rằng Mỹ nắm một vị trí quyền lực kinh tế quan trọng trong thế giới ngày nay, một phần vì nó là quốc gia trung thực nhất xét về các chuẩn mực quản lý doanh nghiệp.
Năm 2002, theo một nghiên cứu, Mỹ đứng thứ muòi hai trên thế giới về mức độ liêm chính (Đan Mạch, Phần Lan và New Zealand xếp đầu tiên; Haiti, Iraq, Myanmar và Somalia xếp cuối cùng, thứ 163). Thực chất, Mỹ đang trượt dốc, chứ không phải đi lên và điều này có thể gây tổn thất lâu dài và to lớn.
Adam Smith nhắc nhở chúng ta rằng, tính trung thực là chính sách tốt nhất, đặc biệt trong kinh doanh. Bạn có thể nhìn vào nhiều quốc gia để xem xét khía cạnh này. Ở châu Mỹ Latinh tràn ngập các tập đoàn kinh tế gia đình cho họ hàng vay vốn (và sau đó không thể không cho vay tiếp khi các con nợ không trả được). Iran cũng là một ví dụ về tình trạng thiếu sự tin tưởng. Một sinh viên Iran ở MIT nói với tôi rằng, công việc kinh doanh ở đó thiếu nền tảng niềm tin. Chính vì điều này, không ai thanh toán tiền trước, không ai cho nợ và không ai dám chấp nhận rủi ro. Mọi người phải thuê nhân viên ngay chính trong gia đình họ để đảm bảo độ tin cậy. Bạn có muốn sống trong một thế giới như vậy không? Hãy cẩn thận vì thiếu sự trung thực, bạn sẽ đến thế giới đó nhanh hơn bạn tưởng.
Chúng ta có thể làm gì để giữ cho một đất nước luôn có sự trung thực? Chúng ta có thể đọc Kinh Thánh, đọc Kinh Coran hay bất kỳ cái gì phản ánh giá trị của chúng ta. Chúng ta có thể tái sinh lại những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Chúng ta có thể ký tên mình dưới những lời cam kết. Chúng ta phải thừa nhận mình đang rơi vào tình huống khi mà các lợi ích tài chính cá nhân của chúng ta đối lập với những tiêu chuẩn đạo đức. Vậy câu trả lời là gì? Nếu chúng ta nhận ra điểm yếu này, chúng ta có thể tránh những tình huống như vậy ngay từ đầu. Chúng ta có thể ngăn chặn các bác sỹ không được tiến hành những xét nghiệm sẽ mang lại cho họ những lợi ích tài chính; chúng ta có thể ngăn chặn các kế toán viên và các kiểm toán viên không được làm tư vấn cho cùng một công ty; và chúng ta có thể cấm các nghị sĩ quốc hội không được đặt ra mức lương cho mình, ...
Nhưng đây không phải là kết thúc của vấn đề không trung thục. Trong chương tới, tôi sẽ đưa ra một số gợi ý khác về không trung thực và cách đấu tranh với nó.
Phụ lục: Mười Lời răn của Chúa
Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, trước mặt ta ngươi chớ có thần khác.
Ngươi không được lấy danh Thiên Chúa để làm những việc phàm tục tầm thường.
Ngươi hãy nhớ ngày Sa-bát, coi đó là ngày Thánh.
Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi.
Ngươi chớ Gi*t người.
Ngươi chớ phạm tội tà dâm.
Không được tham lam lấy của người khác.
Ngươi không được làm chứng dối hại người.
Ngươi không được ham muốn vợ người ta.
Ngươi không được thèm muốn của cải của người khác.