Trong số những người quen mà cô gặp lại có Lưu Hoa, anh ngồi xe lăn chậm rãi thưởng thức các tác phẩm, Tiểu Liên nhìn một cái là nhận ra anh ngay. Sau đó cô mời anh tới “Vườn ăn” mà anh giúp cô mở cửa.
Anh nói:
- Anh đoán là em chắc chắn sẽ thành công mà, ban đầu anh đã không nhìn nhầm em.
Cô mỉm cười, sức mạnh gì khiến cô nhận ra anh ngay lập tức, cô vẫn không hiểu nổi. Anh ngồi trên xe lăn, nếp nhăn nhiều hơn trước rất nhiều, vì sinh tồn, anh đã phải nỗ lực hơn người thường rất nhiều. Anh nói, anh từ chức ngay sau khi bị tai nạn. Mở một cửa hàng thiết kế con dấu nhỏ ở gần nhà, vì bố anh có nghề này. Sau khi học được ngón nghề của ông, anh đã nghiêm túc đầu tư vào kinh doanh, anh vừa làm phẫu thuật, vừa kinh doanh cửa hàng mới thuận lợi vượt qua được mọi khó khăn. Trước lần phẫu thuật cuối cùng, anh ở trong hành lang bệnh viện hát vang bài Thủy thủ, mặc kệ các bác sĩ và y tá xung quanh nhìn anh bằng con mắt kinh ngạc như thế nào.
- Tiểu Liên, anh vẫn luôn lặng lẽ quan tâm tới tình hình công việc của em. Không ai biết những điều này từng liên quan tới anh, anh cũng không muốn dùng nó để yêu cầu cái gì, nhưng thực ra đối với cuộc sống của anh nó lại có một vai trò rất lớn. Sau khi thành tàn phế, anh chỉ muốn rời khỏi thế giới này, nhưng anh muốn em từng bước đi tới thành công. Anh biết anh đã mất đi rất nhiều quyền lợi, bao gồm cả quyền được gặp em, thế nên anh mới giữ cho mình riêng một khoảng trời để làm việc của mình. Mỗi sự tiến bộ của em, anh đều vui hơn bất kỳ ai khác, nó cũng khiến anh thương yêu bản thân mình hơn. Tàn phế hoặc biến người ta thành một kẻ bất đắc chí, hoặc có thể khiến một người trở nên vô cùng lương thiện.
Khi nói chuyện anh hơi lắp bắp, có thể vì họ đã xa nhau quá lâu mới gặp lại.
- Cảm ơn.
Ngoài trừ từ này, Tiểu Liên không biết nói từ nào khác. Cô nhìn anh, chính anh đã đưa đôi bàn tay giúp đỡ dịu dàng về phía cô sau khi cô đã thất vọng hoàn toàn về tình yêu, chính anh đã giúp cô một lần nữa giương cao đôi cánh bay vào tương lai. Thậm chí cô cảm thấy, nếu năm xưa anh không rời xa cô thì cô sẽ chăm sóc anh, cùng anh đi làm phẫu thuật cho tới khi anh đứng lên được, nhưng sau đó thì sao? Nhịp sống hiện đại nhanh tới mức khiến người ta khó có thể thở nổi, giống như sự tương ngộ và ly biệt giữa người với người.
Cô nói:
- Hôm nay chúng ta đã gặp nhau thì em sẽ cố gắng giúp đỡ anh, bởi vì ngày trước anh cũng đã giúp em quá nhiều rồi. Nếu anh có việc gì cần em làm, em chắc chắn sẽ không tiếc gì hết mà làm giúp anh.
Anh gật đầu, nói:
- Cảm ơn em. Cuộc sống của anh khá tốt, tốt tới mức anh đã bắt đầu yêu rồi.
- Cô ấy là người thế nào? – Tiểu Liên vừa tò mò vừa vui vẻ hỏi.
- Là một cô gái rất nhân hậu. Nhưng có một điều bất anh là cô ấy có một người chị ruột rất hung dữ. Mà quan trọng hơn là người chị đó lại rất giàu có. Chị ấy cản trở tình cảm của bọn anh, nhưng cô ấy vẫn ở bên anh cho tới giờ.
- Thế nên cô ấy rất nhân hậu.
- Đúng. Sau khi bị tàn phế, anh đã quen rất nhiều người bạn cũng bị tàn tật như mình, không cảm thấy mình có gì đáng thương nữa. Quen biết và trò chuyện với những người có chí nguyện và tao ngộ như mình, anh cảm thấy cuộc sống của mình chẳng có gì là không tốt. Anh nghĩ mấy năm nay, chắc chắn là em cũng thay đổi nhiều rồi. Nhưng anh muốn nhắc nhở em một điều, cho dù vào lúc em vui vẻ đến đâu thì hãy giữ một hứng thú cho riêng mình, nhìn thế giới này rộng lớn một chút, em sẽ thấy mình càng vui vẻ hơn.
Tiểu Liên gật đầu.
Cô vốn muốn giúp anh, nhưng những lời này của anh khiến cô cảm thấy thực ra mình không vui vẻ. Cô ngày trước để mặc mình sống trong vỏ bọc của sự lừa dối, cũng không bao giờ lo lắng là mình sẽ bị những thứ này làm cho buồn bã. Nhưng giờ đây mặc dù cô đã làm việc và sống rất nghiêm túc, cô vẫn tự bảo vệ mình trong một cái vòng tròn.
Sau khi đưa anh về, Tiểu Liên ngồi một mình trong “Vườn ăn” của mình suốt cả buổi chiều. Cô quyết định thay đổi lại nhà hàng này. Những cửa hàng đồ ăn Nhật và Hàn trong mấy năm gần đây được mở ra rất nhiều, cô không muốn mình cũng giống như người khác. Cô phải trang trí lại nhà hàng, đi theo hướng nhà hàng cao cấp, chuyên nhận đặt tiệc, đặc biệt là những bữa tiệc công. Nơi này từng giống như một sân khấu, thật, giả, hư thực, hàng ngày diễn những vở kịch khác nhau. Giờ đây, cô muốn biến nó thành một cái sân khấu hoàn toàn mới, sân khấu này một nửa là không khí cạn ly vui vẻ của giới doanh nhân, nửa còn lại, cô muốn xây dựng những bữa tiệc vui vẻ.
Thượng tuần tháng Bảy, Tiểu Liên tổ chức một bữa tiệc rượu vì triển lãm của Phương Thành đã thành công.
Hôm đó, cô trang điểm vô cùng lộng lẫy, đôi hoa tai màu lam phối với chiếc váy sườn xám dài, cái cổ cài cúc cao và một cái cài áo khiến cô trở nên đoan trang nhưng vẫn đầy quyến rũ. Cô đóng vai là người chủ trì, giới thiệu Phương Thành xuất hiện, khi anh từ sau bức rèm chậm rãi bước ra trong tràng vỗ tay của mọi người, bàn tay đang cầm micro của cô toát mồ hôi. Anh đã là một họa sĩ rất xuất sắc, khi thị trường nghệ thuật ngày càng phát triển, các tác phẩm của anh cũng dần dần được vào những cuộc bán đấu giá, dần dần được mọi người thừa nhận, mua bán, sưu tầm, đánh giá. Mười năm trước, cô từng cười anh là một người nằm mơ giữa ban ngày, chỉ có ba loại màu mà dám mơ có một xưởng nhuộm, mười năm sau, người chỉ biết nằm mơ ấy đã dùng ngòi 乃út của mình để vẽ ra một vườn hoa hy vọng cho mọi người cùng chiêm ngưỡng, quá trình đó đã phải trải qua biết bao gian nan và vất vả.
Tiếng vỗ tay vang như sấm. Anh đứng bên cạnh cô, trên người là bộ veston cao cấp bằng vải bóng, kết hợp với chiếc áo sơ mi bằng lụa màu xanh lam, rất thoải mái nhưng cũng vô cùng phong độ. Mái tóc anh được chải gọn gàng ra sau, khí thế hơn người. Anh thực sự khác với mọi người, không vì vui mà dễ dàng đưa ra những lời hứa, cũng không vì ghét mà tráo trở, lật lọng.
Bữa tiệc rượu kéo dài tới tận mười hai giờ đêm. Sau khi kết thúc, Phương Thành đi hát cùng những người bạn Nhật Bản của anh, Tiểu Liên ra về trước.
Cô tới văn phòng, lật xem tờ PRWEEK số mới nhất, rót cho mình một tách trà, nhớ lại một vài chuyện. Làm cái nghề này lâu sẽ thấy chán, nhưng cô vẫn nói với mình là phải mở rộng mạch suy nghĩ. Trong cái văn phòng này, cô luôn dành tặng họ nụ cười thân mật nhất, lời nói thông minh nhất, cử chỉ tao nhã nhất, và những đề nghị quan trọng để họ ý thức được giá trị của bản hợp đồng trong tay mình, cho tới một ngày Phương Thành ngồi trước mặt cô. Cô làm mọi thứ thật tỉ mỉ tới nỗi quên cả tính cách phóng khoáng của mình. Trong công việc, cô thậm chí còn coi trọng việc tiễn khách hơn cả đón khách, như thế mới có thể thu lợi về sau. Giờ đây lại tiễn một người khác nữa, nhìn cuốn sổ ghi chép lại công việc của triển lãm tranh, cô cảm thấy như có một cái gì đó kết thúc, bởi vì cô không nhìn thấy liệu nó có còn có thể tiếp tục. Thành công rồi nhưng lại thấy bi ai, cô không hiểu được. Ngoài cửa sổ, trời đổ mưa, cơn mưa bất ngờ phảng phất như tiếng lòng ai oán từ trong sâu thẳm. Lúc này, Phương Thành gọi điện thoại tới, nói anh đi qua văn phòng của cô, có thể vào chơi được không.
Anh bước vào văn phòng, cả người đã ướt sũng. Cô vội vàng ϲởí áօ khoác ngoài của anh ra, treo lên móc, cố gắng bắt mình không được nhìn thẳng vào anh. Họ ngồi trong phòng họp.
Cô nói:
- Lần này có rất nhiều đơn đặt hàng mua tranh, anh định bán thế nào? Có lựa chọn một vài bức tranh tham gia cuộc bán đấu giá mùa thu không?
- Anh tới vào giờ này không phải vì muốn nói chuyện công việc.
- Thế thì nói gì? Anh nói đi.
Anh không nói gì nữa…
- Mấy tháng nay, hình như anh lại làm quen với em. Em thực sự khác trước rồi. Nhớ lại cuộc sống của chúng ta trước kia, mặc dù ở rất xa em, nhưng lúc nào anh cũng nhớ tới em. Bố anh giờ đây sức khỏe rất yếu, khi mở triển lãm tranh, anh chỉ có thể ở bên ông vào ban đêm, cũng may mà em bớt thời gian để quan tâm tới chuyện ở triển lãm.
- Ông vẫn khỏe chứ?
- Không ổn nữa rồi. Nhưng thấy anh quay về mở triển lãm tranh, ông rất hài lòng, thậm chí còn nói có ૮ɦếƭ cũng không có gì nuối tiếc.
Anh nói tiếp:
- Mặc dù anh đã thành họa sĩ nhưng hình như anh lại đánh mất em.
- Không đâu. Chúng ta vẫn là bạn cơ mà.
- Anh sẽ phải sang châu Âu làm việc một thời gian. Trước khi đi, anh muốn cầu hôn em.
Anh cúi thấp đầu, lần đầu tiên khiến người khác nhận ra rằng anh từng sống ở Nhật. Cô sững sờ, trong cuộc đời mình, anh là người đầu tiên cầu hôn cô, hơn nữa cũng là người duy nhất cầu hôn tới hai lần.
- Anh không bắt em phải đồng ý ngay lập tức.
- Thực ra hôn nhân cần phải được xây dựng trên cơ sở tình cảm. – Cô nói.
- Nếu không có, em có ra sức bôn ba vì triển lãm tranh của anh không? Nếu không có, giờ đây em có cho anh xuất hiện ở nơi này không? Nếu không có, vừa nãy khi em chủ trì chương trình, sao em lại kích động như thế? Nếu không có, sao em lại viết những bài văn như vậy?
Nếu không có, cô có không thể quên được cái bóng hình đi cùng anh ở Hàng Châu và sau đó nhói đau khi nghĩ lại? Tiểu Liên thầm hỏi mình.
- Thế nên, Tiểu Liên, trái tim em chỉ là không dám thừa nhận mà thôi.
- Phương Thành, nói cho em nghe quá khứ của anh được không? Em muốn nghe!
- Ở Nhật Bản, cuộc sống lúc mới đầu khó khăn lắm. Rất nhiều người Trung Quốc vì muốn kiếm tiền mà giúp người ta làm thủ tục du học, rồi giới thiệu những cuộc hôn nhân quốc tế, làm những nhà sư già đi xin tiền của những thanh niên Nhật trên đường. Vật giá ở Tokyo cao tới đáng sợ, anh thậm chí còn cảm thấy mỗi một bước đi đều phải tiêu tiền. Anh từng làm công nhân, trông coi cửa hàng cho người khác, cả ngày không biết là mình bận những cái gì, cũng may mà tiếng Nhật của anh tốt, quen không ít bạn bè nên cũng không bị bắt nạt. Anh còn nhớ lần đầu tiên anh ra khỏi sân bay Narita, ngồi trên chiếc xe ô tô lao ✓út trên đường cao tốc, những thửa ruộng màu xanh và những ngọn núi nhấp nhô, khung cảnh quả thực rất đẹp. Trên núi, cây cối mọc xen kẽ lẫn nhau, như một bức tranh sơn dầu tinh tế. Nhưng vừa đi vào thành phố Tokyo, màu xanh mà anh nhìn thấy càng lúc càng ít. Lúc buồn, anh thường tới quán rượu gọi một ly rượu rẻ tiền nhất và ngồi trong một góc nhìn những người Nhật túm tụm thành từng nhóm vui đùa với nhau. Buồn nhất là nửa đêm về nhà một mình, không có giấy phép, không có tiền mua xe. Nhưng khoảng thời gian đó anh không oán trách ai, mà chỉ kiên nhẫn chờ đợi thực hiện mục tiêu của mình. Tính cách người Nhật rất đáng để học tập, ví dụ như đức tính đền ơn đáp nghĩa của họ, họ tin rằng con người phải trả hết các món nợ của mình, cho dù là tiền hay là tình cảm.
Lời nói của anh dần trở nên nghiêm túc, cô có thể nhận ra sự kích động trong ánh mắt anh là do môi trường tạo ra.
- Ông chủ cửa hàng mà anh làm thêm khi đó đối với anh rất tốt. Ông ấy nói thực ra giữa người Nhật với nhau cũng rất khó kết bạn chứ đừng nói là người Trung Quốc, nhưng rất nhiều người Trung Quốc lại luôn dương dương tự đắc vì việc mình quen với người Nhật. Người Nhật rất thực tế, một khi em đã chia tay với người ta thì đừng nghĩ tới việc tìm người ta giúp đỡ.
- Ở Nhật anh có động lòng với người đàn bà nào không?
Anh suy nghĩ.
Những người phụ nữ anh từng động lòng giống như một mảnh chì, nặng nề và xám xịt. Anh nói:
- Có hai người khiến anh động lòng. Một người là bạn học, trường đại học ở Nhật sau “Tết Văn hóa” vào tháng Mười một hằng năm sẽ tổ chức một hoạt động tế lễ trong trường, mấy ngày đó, các trường đều cho nghỉ học, hội lưu học sinh bọn anh tổ chức triển lãm tác phẩm của mình, đồng thời làm một ít bánh bao với màn thầu Trung Quốc, chương trình này luôn được người Nhật rất hoan nghênh. Cô ấy tới mua bánh bao của bọn anh, thế là bọn anh quen nhau. Nửa năm sau ra công viên Ueno chơi thì gặp lại, anh mới phát hiện ra mùa xuân Tokyo rất sạch sẽ và đẹp, đầu tiên là hoa anh đào, sau đó là đỗ quyên, mà con gái Nhật Bản lúc này cũng là xinh đẹp nhất. Em có thể tưởng tượng trong ánh mặt trời mùa xuân rực rỡ, nhìn một người phụ nữ mặc bộ quần áo giản dị bước đi trên đường là một sự hưởng thụ tao nhã thế nào không? Sau đó, người nhà cô ấy phản đối cô ấy qua lại với người Trung Quốc, anh tới nhà cô ấy dùng cơm, không ngừng cúi gập lưng bốn mươi lăm độ, không ngừng nói những câu lịch sự, còn tặng họ rất nhiều tác phẩm nghệ thuật của Trung Quốc, cố gắng để hành vi của mình phù hợp với lễ nghĩa của người Nhật, nhưng họ vẫn không chịu chấp nhận. Ở nhà cô ấy hai tiếng đồng hồ còn dài hơn cả thời gian bản vệ luận văn. Thực ra, thể diện đối với họ mà nói quá quan trọng. Anh nghĩ, nếu anh phải cúi lưng và quỳ gối cả đời như thế thì sao mà chịu nổi? Anh làm sao còn cảm hứng mà vẽ tranh? Vả lại mỗi tháng du học ở Nhật phải tiêu tốn mấy mươi mấy vạn yên Nhật, làm sao anh có thể thoải mái yêu một ai đó như khi còn ở trong nước?
Anh chìm đắm trong hồi ức, nói tiếp:
- Người thứ hai là một nhà thiết kế thời trang, bọn anh đều làm mỹ thuật, cô ấy rất giàu có, khi đó anh rất nghèo. Hồi mới tới Nhật, để kiếm tiền anh từng vẽ lại mấy bức tranh của người khác, nhưng anh biết, nếu vẽ nhiều sẽ khiến mình rơi vào vực sâu của sự giả tạo. Nhà thiết kế đó quen một người buôn tranh từ Thâm Quyến tới, người đó tới tìm anh, yêu cầu anh phục chế một số tác phẩm của những họa sĩ nổi tiếng, còn đưa ra một kế hoạch cho ra đời một bộ tranh nổi tiếng, nói là nếu thành công thì lợi nhuận chia đôi. Anh không đồng ý, cũng không chấp nhận nổi quan niệm đó, còn nhà thiết kế kia thì cho rằng nghệ thuật chỉ là trang điểm cho tiền bạc, tiền bạc mới là giá đỡ của nghệ thuật, anh không thể nào chấp nhận được quan điểm này, thế là bọn anh chia tay. Cũng may là chia tay, nếu không có lẽ anh đã rơi vào vũng lầy của tiền bạc. Henry III giúp Dumas có một khoản thu nhập rất khả quan, mỗi khi đi đến đâu là ông ta lại đeo những sợi dây mặt ngọc khác nhau. Ở Nhật Bản, anh cũng gặp quá nhiều những người như thế, nhưng anh tuyệt đối không thể làm loại người đó.
Phương Thành không hề nhắc tới cuộc hôn nhân ngắn ngủi của anh với Các Bình.
Anh chỉ yêu những gì mình yêu, giống như Trương Đại Thiên chỉ thích chiếc mũ Đông Pha của mình, cho dù có thành danh hay không thì vẫn thích.
- Anh còn nhớ năm trước khi anh cầu hôn em, em từng nói là mình rất đau lòng, thực ra mấy năm nay chúng ta đều đau lòng, giờ đây chúng ta bắt đầu lại từ đầu, được không?
- Nhưng anh làm việc ở Nhật, chúng ta cách nhau quá xa.
- Anh đang định bỏ công việc ở Nhật để quay về Thượng Hải, nghệ thuật trong nước giờ cũng phát triển rất nhanh, khiến một họa sĩ mới nổi như anh động lòng, đối với anh, đây là một mảnh đất tốt. Đương nhiên, để có cảm hứng, có thể nhiều lúc anh sẽ ra nước ngoài hoặc các nơi khác trong cả nước, nhưng anh sẽ mãi mãi dừng chân ở đây. Mỗi lần về Thượng Hải, anh đều cảm thấy tiết tấu của thành phố này thật đáng yêu, thay đổi cũng rất nhanh, anh tin là sự khác biệt giữa nó với Tokyo càng lúc càng nhỏ.
- Nhưng em không muốn ai vì em mà thay đổi.
- Tiểu Liên…
Vì tiếng gọi của anh mà cô không nói gì nữa. Nếu tương ngộ chỉ hạnh phúc bởi vì có sự chia ly thì lúc nào mới là kết thúc, lúc nào mới là niềm vui? Trong mắt anh, cô nhìn thấy sự thay đổi của mình, từ sự thay đổi của mình, cô cảm nhận được sự thay đổi của họ. Rất nhiều người đã ra đi như một đám mây, mang theo trên mình câu chuyện của họ, nhưng cuối cùng vẫn quay về. Bởi vì ngay mới đầu anh đã nói là sẽ còn gặp lại, anh muốn xem hết những cảnh đẹp ở phía bên kia thế giới rồi quyết định quay lại nhìn gương mặt tươi cười của Tiểu Liên.
Cô không lập tức đồng ý với anh. Cô phải sắp xếp lại tình trạng của mình, bởi vì sự dừng lại bất ngờ của anh giống như một chiếc khóa xinh đẹp và một con thuyền hư ảo trên thiên đường.
Có lúc Tiểu Liên cảm thấy Phương Thành giống như một nghệ sĩ thực thụ. Khi họ ở cùng nhau, họ thường nghe nhạc, ngày trước cô chỉ thích nghe những bài hát trẻ đang thịnh hành, nhưng anh cho cô nghe tác phẩm của các nhà chỉ huy khác nhau, ví dụ như sự sâu sắc của Toscanini, sự lãng mạn của Meta hay sự nhập tâm, sâu lắng của Karajan. Anh đặc biệt thích tác phẩm của dàn nhạc giao hưởng Berlin chơi dưới sự chỉ huy của Karajan. Anh nói, khi Karajan chỉ huy, ông thường nhắm chặt mắt, không bao giờ nhìn nhạc phổ, nhưng trong lòng ông đang có hàng ngàn nốt nhạc đang nhảy múa, đôi tay như trời xanh, có thể điều khiển cả dàn nhạc, giữa trời và biển, ông trở thành vị thần âm nhạc.
Họ nghe nhạc ở nhà Tiểu Liên. Anh nói:
- Năm 1954, Toscanini nhận được giấy báo kết thúc hợp đồng từ dàn nhạc, trong thư viết, chúng tôi không còn cần ông nữa. Toscanini đau lòng lắm, nhưng lại chẳng biết làm gì. Khi ông cảm thấy cơ thể mình yếu dần đi, ông bèn tổ chức một buổi hòa nhạc cuối cùng, nhưng rồi ông chỉ có thể đứng trên sân khấu cứng đơ, không thể nào chỉ huy nổi, cả hội trường im lặng, ông lặng lẽ xuống khỏi sân khấu. Em xem, khúc nhạc cuối cùng của ông ấy kết thúc như vậy, nhưng sau khi ông ấy qua đời, vẫn có rất nhiều người nhớ tới ông. Chúng ta có thể oán hận xã hội này, nhưng không thể nào đánh giá về nó.
- Không, em cảm thấy chúng ta có thể đánh giá xã hội này, nhưng không thể nào oán hận nó.
Anh nhìn cô. Có lẽ đây là sự khác biệt giữa họ mà cuộc sống và môi trường đã tạo ra, giống như những người của chủ nghĩa lạc quan phát minh ra máy bay, người theo chủ nghĩa bi quan thì phát minh ra cái dù, tích cực và tiêu cực vốn dĩ không do một cá nhân nào quyết định.
Họ ngồi trên sàn nhà trong căn nhà mới của Tiểu Liên, uống nước hoa quả và nghe nhạc giao hưởng của Beethoven, hai người bận rộn cuối cùng cũng có cơ hội hưởng thụ niềm vui của cuộc sống. Anh nói:
- Anh hy vọng thành tựu nghệ thuật của mình cũng nổi tiếng như Yves Saint Laurent dùng nylon để tạo ra áo gió.
Cô nói:
- Chúng ta đương nhiên đều theo đuổi cuộc sống no đủ, nhưng sự giàu có về tiền bạc chỉ là một phần trong tài sản của cuộc đời.
Khi nói tới điều tâm đắc, cô vô tình ᴆụng phải chân anh, vội vàng nói xin lỗi.
- Tuần sau có thể anh sẽ đi châu Âu.
- Tới nước nào?
- Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Hà Lan.
- Đi bao lâu?
- Khoảng ba tháng. Em có muốn đi cùng anh không?
- Đi làm gì? Đi chơi sao?
- Đi kết hôn. Anh đã từng có một cuộc hôn nhân ngắn ngủi, đó là vì khi đó anh quá nông nổi, kết hôn khi đó anh không nghĩ rằng mình còn phải tạo ra tình yêu, nhưng tiềm thức của anh chỉ muốn mình có một cuộc sống khấm khá hơn. Giờ anh hiểu rồi, một cuộc hôn nhân chỉ vì công danh lợi lộc tầm thường này thật quá đỗi ngu ngốc. Hôn nhân không có vật đi kèm, nếu đi ngược lại với ý chí ban đầu của mình, nó sẽ trở thành một tòa nhà trống rỗng. Giờ đây lời thỉnh cầu của anh đối với em mặc dù cũng là kết hôn, nhưng anh đã suy nghĩ rất nghiêm túc, anh muốn có một tình yêu đẹp và cho tình yêu đó một mảnh đất an toàn!
Ánh mắt anh sáng lấp lánh, trong đôi mắt đó là một sự cám dỗ khó cưỡng lại được. Ánh mắt anh khiến cô mềm yếu, nhưng cô nói:
- Nhanh quá, bởi vì còn rất nhiều chuyện chưa kịp xử lý!
Anh đứng lên, nói:
- Em còn chờ cái gã tên Dick đó sao? Anh ta sẽ không về bảo em đi đâu. Thứ anh ta cần là một tình cảm lãng mạn, anh ta từng nới với anh, hôn nhân là chìa khóa của tình yêu, vốn không muốn thật lòng với em, nhưng anh ta lại thực sự động lòng rồi, nhưng không muốn kết hôn, thế nên chỉ biết giúp đỡ em để bồi thường và cân bằng lại thôi. Bây giờ cảm thấy công ty của em đã vào quỹ đạo, không còn cần sự giúp đỡ của anh ta nữa nên không giúp em nữa. Theo như anh biết thì anh ta đang có mối quan hệ rất tốt với một ca sĩ ở Bắc Kinh, có lẽ chỉ có ca sĩ mới hợp với anh ta. Thực ra anh ta càng tốt với em thì càng rời xa em.
- Anh nói bừa. – Cô ngẩng đầu lên nhìn anh đang vừa nói vừa đi đi lại lại.
- Chính anh ta nói với anh như thế. Khi mở triển lãm, anh ta biết em làm giúp anh nên đã liên lạc với anh.
- Anh ấy việc gì phải nói chuyện này với anh? Chẳng nhẽ cũng vì muốn bồi thường cho em?
Anh ngừng lại một chút. Lúc này, âm nhạc đã chuyển sang một bài của Mozart, tiếng nhạc du dương như đang say mê kể câu chuyện của mình, nó không chỉ thể hiện ước vọng về âm nhạc. Khi Mozart sáng tác nhạc, ông thích uống sâm panh để tìm cảm hứng, đến nổi ông nghèo tới độ không đủ tiền mà mua bánh mì. Còn whisky của cô đâu? Cô đã uống hết rồi sao? Phương Thành nói tiếp:
- Hai năm trước, khi anh về Thượng Hải đã nói với anh ta là anh yêu em, nhưng khi đó anh ta nói người em yêu là anh ta. Nhìn nụ cười của anh ta, anh như một người lính bại trận, không còn dũng khí để tới gần em. Đầu năm nay, anh thấy em không vui mấy nên tới tìm anh ta. Bởi vì anh biết, chỉ có tình yêu mới có thể khiến nỗi buồn hiện trên mặt em. Anh tới Bắc Kinh, hai thằng đàn ông bọn anh ngồi trong quán ăn ở Vương Phủ Tỉnh nói chuyện suốt cả buổi tối.
Tiểu Liên nghiêng người cuộn tròn mình bên cạnh xa lông, cứ như thể đang nghe lời phán quyết.
- Bọn anh có tình cảm khác nhau với em. Tình cảm của anh ta là cái đẹp, nhưng tình cảm không thể anh hưởng tới sự nghiệp của anh ta, anh ta cho rằng tình yêu có thể có có thể không, nó chỉ như một làn khói trong mắt, giống như sự giấu giếm của Napoleon và sự khinh miệt của Byron đối với phụ nữ. Anh không thể nào hình dùng được tình cảm của mình, nhưng trong hai năm nay, hay nói rộng ra là trong gần mười năm nay, những bắt đầu rồi kết thúc, kết thúc rồi lại bắt đầu, anh phát hiện ra tình cảm của mình vẫn không hề thay đổi, em hiểu không? Anh đã quen dùng tranh để biểu đạt bản thân, em đã từng xem rất nhiều tranh của anh, em phải hiểu chứ!
Cô mở to đôi mắt nghi ngờ nhìn anh. Anh quỳ xuống, cô cúi thấp đầu, anh xoa nhẹ tay lên cái cằm dài của cô, chỉ nhẹ nhàng vậy thôi nhưng đã có thể chạm vào trái tim cô. Quen anh vào lúc trẻ trung nhất của cuộc đời, có ánh mặt trời, có giọt mưa xuân, có bóng râm và vô vàn giày vò, đau khổ, có cả những giọt nước mắt đắng chát, có cả những giọt rượu say mê. Cô nhớ tới lời bài hát trong “Chiếc máy thu âm hỏng” của Hiadaeki Tokunaga mà anh từng viết trong thư cho cô: “Nói cho anh biết, hạnh phúc rốt cuộc là gì? Chiếc máy thu âm hỏng của anh?”. Tới ngày hôm nay, người cô nhìn thấy là họa sĩ thành công, cô không còn nhìn thấy dáng vẻ thê thảm của anh. Anh từng nói, một nghệ sĩ có thể làm phong phú được tâm hồn mình từ những đau khổ thì sẽ có một cuộc đời dài gấp đôi người khác. Trong đau khổ ý thức được giá trị những gì mình vứt bỏ và tình yêu của mình đối với chúng chính là một sự tu luyện mà khảo nghiệm dành cho họ.
Nhìn anh khiến cô bỗng chốc nghĩ tới rất nhiều điều, cảm giác an ủi trong tim giống như được nhìn thấy một rặng san hô xinh đẹp.
Anh rụt tay về rồi đứng lên, nói:
- Anh đi đây. Đây là lần thứ ba anh nhắc tới chuyện kết hôn. Anh không muốn mình quá tầm thường, cũng không còn dũng khí để nhắc thêm lần nữa. Không có em cũng được, bởi vì anh vẫn còn tranh, còn những thứ khác.
- Phương Thành. – Cuối cùng cô cũng đứng lên.
- Sao? – Anh hỏi.
Nhưng cô không nói gì nữa, mặc cho anh đóng cửa lại.
Sau đó cô nằm bò ra sàn nhà mà khóc. Sàn nhà bằng gỗ sáng bóng nhưng lạnh lẽo. Cô thà ngồi trên bãi cỏ trong trường đại học, mặc dù có nhiều sâu, nhưng với họ, chúng là những con vật đáng yêu, nhìn bộ xa lông nhập khẩu trong cái phòng khách rộng lớn và những món đồ điện từ hiện đại khác cao cấp nhưng không có sức sống, cũng không có âm thanh mà cô muốn nghe. Phương Thành đi rồi, mang theo sức sống của cô, mang theo bầu trời của cô, chỉ để lại cho cô những giọt nước mắt tiếc thương ngày tháng cũ.
Thế nào là tình yêu? George Sand yêu Chopin sâu sắc đã nói rằng: “Đó là nước mắt, bạn từng khóc nghĩa là đã yêu”.
Phương Thành đi ra phố, những chiếc xe vun ✓út lao qua, cơn gió thổi bay áo anh lên. Anh nhớ tới lời của Schopenhauer: Em có tội hay không? Anh muốn tìm hiểu, cho dù em là người như thế nào, anh cũng chỉ biết mình yêu em.
Anh quay về nhà mình, cầm một món đồ rồi lại đi ra, lại tới dưới lầu nhà cô hút thuốc, khi anh hút tới điếu thứ mười thì phòng cô sáng đèn, anh đi lên.
Lúc mở cửa ra, cô hoàn toàn sững sờ, hình ảnh anh in sâu vào mắt cô, khiến cô nhói tim.
- Anh không vào nữa. – Anh nói khẽ.
Cô càng sửng sốt.
- Chỉ muốn tới thăm em, hơn nữa, tặng em một món đồ. – Đưa món đồ cho cô xong, anh bèn bước vào thang máy.
Món đồ đó được gói bằng giấy bạc trong bao thuốc lá, trong đó là một mô hình đàn piano vô cùng tinh xảo do anh tự làm, trước khi đi Nhật, anh từng nói sẽ tặng cô piano. Cô cũng từng nói sẽ dạy anh chơi đàn, cho dù anh là học sinh kém nhất, ngốc nhất, dốt nhất, cô cũng sẽ vui vẻ, bởi vì khi đó âm nhạc không chỉ là âm nhạc, đàn không chỉ là đàn, chúng đã trở thành những ánh sáng của tương lai.
Đóng cửa lại, cô không thể nào giữ được trái tim bình tĩnh. Cô luôn là một người mà đạo đức đi kèm với hành động, hành động lại mê hoặc tình cảm, nhưng giờ đây, tại sao cô lại trở thành một người lính bại trận không thể nào đứng lên được?
Trước khi ra nước ngoài, Tiểu Liên thu hết dũng khí để hẹn Phương Thành ra ngoài. Cô hy vọng khi anh sang Đức sẽ bớt chút thời gian đi thăm Đại Vân, bởi vì đã lâu lắm rồi cô không nhận được thư của Đại Vân, cô không biết Đại Vân đã xảy ra chuyện gì. Cô nhớ vẻ đẹp và những câu văn giàu trí tưởng tượng của Đại Vân.
Phương Thành vừa mới nghe nói tới cái tên Đại Vân đã vô cùng kinh ngạc, anh cố gắng che giấu sự mất cân bằng của mình, chỉ ra sức gật đầu.
Anh hứa với cô, sau đó rủ cô tới suối nước nóng Vân Đô. Nơi này là nơi mà năm năm trước cô từng tới chơi với Trì Vĩnh, giờ đây nó vẫn rất đông khách. Họ bao trọn một bể bơi, cô không thay đồ bơi, bởi vì cô không biết bơi, chỉ ngồi bên mép nước nhìn anh bơi. Sau đó khi anh bơi mệt rồi thì ngồi xuống bên cạnh cô, vừa lau người vừa nói đã lâu lắm rồi mình không bơi, mới bơi được một lúc mà đã không quẫy nổi chân tay nữa rồi. Cô cười, nhìn những giọt nước lấp lánh trên cơ thể anh.
Nơi này không có người ngoài, cũng không thể có người ngoài. Họ có thể nói bất cứ điều gì họ muốn. Nhưng họ lại không làm gì. Chỉ lặng lẽ ngồi. Bàn chân thả trong nước nhưng lại khơi dậy những con sóng trong lòng, hai tay chống trên mặt đất thể hiện tâm trạng khó lòng kìm chế được. Họ đều đã từng ở cạnh những người không nên ở cạnh, đều đã từng bị chìm đắm trong vũng lầy tình ái được khoác lên mình chiếc áo lãng mạn. Quá khứ không phải là duy nhất, nhưng nếu tìm được sợi dây liên kết với quá khứ thì nghĩa là đã tìm thấy bản thân. Mặt nước hồ bơi xanh biếc, mặc dù là nhân tạo nhưng nó vẫn đẹp, vẫn in hình bóng trẻ trung của họ lên mặt nước, sự anh tuấn của anh và vẻ đẹp dịu dàng của cô.
Cứ ngồi như vậy thôi, đơn giản mọi thứ, cũng tha thứ cho mọi thứ. Ngày tháng vì vậy mà trôi qua, trong hơi thở của họ cũng nhận ra nhịp đập gấp gáp của con tim, trong lời đối thoại ẩn giấu sự dịu dàng vô tận.
- Anh đi châu Âu, em có muốn mua gì không?
- Không cần đâu. Cứ làm tốt công việc của anh, mang thêm nhiều tranh về, em thích xem tranh của anh.
- Thật không?
- Thật. Sau này anh có dự định gì?
- Nếu chuyến đi châu Âu lần này thành công thì cứ khoảng hai năm anh sẽ đi một lần. Trong tương lai anh sẽ dạy học, vẽ tranh, bán tranh ở Thượng Hải, có thời gian thì đi những nơi cảnh đẹp đặc sắc, bao gồm cả những nơi ở trong nước, ví dụ như tháp Đại Yến ở Thiểm Tây, sa mạc Ca Thập… sau đó dùng một chút thời gian để học những bộ môn nghệ thuật khác như nặn tượng, chơi violin…
- Anh muốn học violin?
- Đúng thế, mặc dù nó là một loại nhạc cụ khó điều khiển nhất. Chẳng phải em cũng biết chơi piano đó sao? Anh hy vọng có thể cùng em hợp tấu khúc nhạc Lương Chúc.
Cô cố ý không nhìn anh, chỉ nhìn bóng in dưới mặt nước, nhưng cô vẫn nhìn thấy bóng anh trong đó.
Cuối cùng Phương Thành cũng đi châu Âu. Cô không đi tiễn anh, bởi vì anh không yêu cầu cô đi tiễn. Cả đời này đã trải qua quá nhiều ly biệt, cô đã không quan tâm tới sự cất cánh hay hạ cánh của máy bay nữa rồi.
Mảnh đất sự nghiệp của anh có lẽ mãi mãi ở một thành phố xa xôi mà cô không miêu tả được. Cuộc đời anh giống như một vị thánh cô độc và chăm chỉ.
Tiểu Liên bắt đầu thấy nhớ anh. Nhớ lại sự nghiêm túc và thoải mái của anh, nhớ vầng trán cao thể hiện khí chất nghệ thuật của anh, cho dù nghệ thuật là sự trang điểm cho hiện thực, là những hạt mưa lúc mau lúc thưa thì cô vẫn không thể nào kháng cự lại được.
Một hôm, cô đi trên con đường Hoài Hải phồn hoa mà cô độc, nhìn thấy chiếc xe Volvo quen thuộc, chơi tới hôm nay, cô vẫn có thể nhìn qua là nhận ra nó giữa hàng ngàn chiếc xe qua lại trên đường, biển số xe đã thay đổi, chỗ vòng bảo hiểm còn có vết lõm vào do va chạm. Cô nhìn người đang ngồi sau vô lăng, đó là một người đàn bà đeo kính râm. Đeo kính râm vào buổi tối không biết có ảnh hưởng tới việc lái xe không nhỉ?
Chiếc xe Volvo dừng lại giữa một đám xe cộ khác đang tắc trên đường, trước đèn xe có vô số những hạt bụi đang nhảy múa, người đi đường trở nên mờ nhạt.
Tiểu Liên không quen người đó, nhưng cô quen chiếc xe đã từng mang lại cho cô một ý nghĩa nào đó này, đã từng mang theo sự khó hiểu và tham lam của cô, kính xe từng nói với cô rằng thế giới bên ngoài bụi bặm biết bao, ngồi trong xe để ánh mặt trời chênh chếch chiếu vào trong, cùng anh nghe những bài hát vui vẻ và gào thét xẻ stress, nghe điện thoại, huýt sáo, ấn còi, nghe nhạc, quay phim. Cô cũng không tin nó sẽ thuộc về người khác, để cho người khác lái nó.
Nhưng cô biết làm gì? Trên con đường này, cô muốn tìm một bóng hình quen thuộc, cô lại nhớ tới Phương Thành, nhưng giờ đây anh đã đặt chân lên châu Âu rồi.
Vừa bước chân vào công ty, mọi suy nghĩ của cô lại trở nên lý trí, không còn để người khác ảnh hưởng nữa, cũng không còn chăm chú vào sự chờ đợi nữa. Sắp xếp lại tài liệu, nhìn bàn làm việc của nhân viên, kiểm tra các tài liệu trong máy và tình hình hàng trong kho, sau đó lại nghĩ một số chuyện. Ra sức làm việc như thế là vì cái gì? Cô thường thấy nghi hoặc trước câu hỏi này, những gì mà cô thường nhìn thấy trên xe buýt là những người vì mệt mỏi mà vừa đứng vừa ngủ, bụi bặm thành phố không chỉ khiến người ta mệt mỏi mà còn khiến người ta không có thời gian để hồi tưởng lại quá khứ. Giá cả của rau xanh không vì sự khác biệt của công việc mà khác nhau, cảm giác hạnh phúc của con người cũng không vì môi trường mà thay đổi, tiếng hát cũng không vì người hát nổi tiếng hay không mà lay động lòng người. Cô phát hiện ra một lỗ trống trong trái tim mình, mặc dù xung quanh rất tốt, nhưng cô vẫn không thể vui vẻ thực sự.
Cô nhìn thấy trên bàn làm việc của mình có một bức thư, trong đó là một bức tranh, đương nhiên là của Phương Thành.
Bức tranh vẽ một dòng nước, bên cạnh dòng nước có một cô gái rất giống Tiểu Liên, vầng trán đó, khóe mắt đó, và cả cái cằm với mái tóc nữa.
Một dòng chữ khơi lại cảm xúc trong cô: “Người mình yêu trong lòng nói cô đơn nhưng lại không cô đơn, nó chứa đựng một bóng hình, cùng sống với bóng hình đó. Anh đi trên con đường của anh, trên con đường đó không có tiếng cười tiếng nói, cũng không có nụ cười của em, nhưng anh vẫn nâng niu bóng hình em trong tay, bởi vì anh muốn gặp ai cũng nói anh yêu em”.
Nỗi cảm động mà anh mang lại cho cô không thể dùng tiền bạc để đong đếm được, không có những bữa tối lãng mạn bên ánh nến, không có những chiếc xe bạc tỉ đưa đón, chỉ có tâm hồn nhạy cảm và nhiều trắc trở của anh. Mọi lời nói, hành động của anh đều khiến cô thực sự động lòng, khiến cô dường như quay lại với tuổi hai mươi đầy e thẹn nhưng tràn đầy sức sống. Ánh trăng trải đều lên tóc cô, dường như phát ra ánh sáng của ngày cũ. Năm xưa, cô với Phương Thành ôm nhau, hôn nhau trong ngõ nhỏ, dường như không thể xa rời, anh không nói yêu cô, không tặng quà cho cô, nhưng chỉ cần nhìn thấy cô là ôm chặt cô không buông. Bởi vậy cô không tìm kiếm lời giải thích, chấp nhận sự thân mật của anh. Con ngõ nhỏ yên tĩnh là tượng trưng cho tình yêu của hai người. Ở cùng với anh, cô không quan tâm mình ăn gì, không quan tâm mình đang ở chỗ nào, chỉ cần cảm giác được ở bên anh là chân thực, cho dù sau đó khi chia tay, trong tim cô ngập tràn nỗi hoang mang. Anh đẹp trai nhưng không đa tình, là loại người không cho phép tình cảm của mình bị vấy bẩn. Trong những năm tháng thanh xuân nông nổi, chỉ vì muốn gặp anh một giây ngắn ngủi, chỉ muốn nghe anh nói đơn giản một câu “nhớ em”, chỉ vì muốn được thân mật với anh, chỉ muốn cảm thấy vòng tay ấm áp của anh, cô có thể đi tìm anh bất kể trời mưa bão, giá buốt, những đêm hè nóng nực hay vào sáng mùa đông lạnh lẽo, sau đó cô lại về nhà một mình và hồi tưởng lại những phút say đắm vừa qua. Cô cố gắng hết sức để đối xử tốt với anh, tin rằng rồi sẽ có một ngày anh thành công, chỉ sợ ngày đó tới, anh thành người nổi tiếng, còn cô thì tuổi xuân đã qua, tình cảm đã nhạt nhòa. Mỗi lần chia tay sau khi gặp anh là cảm giác mà cô không muốn nhớ tới nhất, anh thường an ủi cô: “Có phải không muốn đi không”, cô gật đầu. Sau đó nghịch ngợm nói:
- Được rồi, một trăm năm sau gặp lại, một thế kỷ sau gặp lại.
Giờ đây, sau khi thế kỷ mới đã tới, khi cô cho rằng họ không thể nào gặp nhau được nữa, họ đã thực sự trùng phùng. Cô thậm chí còn không có bất kỳ tiếp xúc thân mật nào với anh, nhưng phát hiện ra cô lại bắt đầu xây một ngọn tháp tình cảm với anh. Cô vẫn luôn thấy khó chịu khi ngày càng nhiều người trẻ tuổi coi thường sức khỏe của mình, đối với họ mà nói, tình dục quá nhiều có thể tước đoạt mất sức khỏe của tuổi xuân, giống như những cửa hàng bán cùng một loại sản phẩm khắp nơi trên phố, mọi người không cần vì mua sản phẩm loại này mà phải đến tiệm bách hóa ở xa, chỉ cần ra ngoài đường là mua được, nhẹ nhàng mà thoải mái, nhưng làm sao biết được rằng những sản phẩm này chỉ dùng vài ngày là chán, vứt ở nhà và không bao giờ ᴆụng tới nữa.
Những bài giảng của Phương Thành ở Đại học Nghệ thuật thiết kế Minerva của Hà Lan rất thành công, những bức tranh mang đậm dấu ấn phương Đông của anh gây nên một tiếng vang lớn trong giới ưa thích nghệ thuật cổ điển, anh lại tinh thông lịch sử nghệ thuật phương Tây, bởi vậy việc giao lưu với người phương Tây không gặp chút khó khăn. Năm 1956, Picasso nói với Trương Đại Thiên, thế giới này nếu nói về nghệ thuật, thứ nhất người Trung Quốc có nghệ thuật, thứ hai người Nhật Bản có nghệ thuật, đương nhiên nghệ thuật của Nhật Bản bắt nguồn từ Trung Quốc, thứ ba là người châu Phi da đen có nghệ thuật, người da trắng chẳng có nghệ thuật gì để nói. Chỉ cần nghĩ tới những lời Picasso là Phương Thành đã có tự tin. Anh nói với người châu Âu, tranh phương Đông rất giàu tư tưởng, cho dù là tranh theo loại hình hay phong cách gì đều là tả thực về tinh thần.
Ở Paris, Pháp tổ chức một triển lãm mỹ thuật mùa hè, anh tới quê của Monet ở ngoại thành Paris để tìm cảm hứng, hồi tưởng lại, muốn tìm kiếm một hình thức sống phi vật chất. Monet cả đời hướng tới văn hóa phương Đông, đặc biệt là hội họa Nhật Bản, đi giữa hương thơm của cây cỏ, Phương Thành nhìn dòng sông Rhine yên tĩnh, nước, mây, ánh sáng và bóng cây giao thoa. Lúc này, nhận thức về thế giới bỗng trở thành vĩnh hằng.