Chim Lồng Có người nói, một người quá đỗi hoài cựu, không hẳn là vì quá khứ xiết bao rực rỡ, mà là vì anh ta không thể yên lòng với hiện trạng. Đời người rối ren, nào ai dám khoe mình có đủ sức mạnh chặn đứng được muôn ngàn gió bụi.
Chỉ vào lúc thực sự mất đi, con người mới tưởng nhớ da diết sự tốt đẹp đã từng có, những thước phim trước đây như hình với bóng, luôn hiện lên trong tâm trí. Lúc này, chúng ta đều không kìm được phải hỏi bản thân, không bỏ xuống được rốt cuộc là vì ưa hoài niệm, hay là vì quá khứ thật sự đáng thương tiếc? Có người nói, một người quá đỗi hoài cựu, không hẳn là vì quá khứ xiết bao rực rỡ, mà là vì anh ta không thể yên lòng với hiện trạng. Đời người rối ren, nào ai dám khoe mình có đủ sức mạnh chặn đứng được muôn ngàn gió bụi. Khi bạn không thể tiếp nhận phong cảnh xa lạ, không thể thích ứng cuộc sống mới mẻ, thì tất nhiên sẽ hoài niệm sự vật đã từng quen thuộc mà ấm áp.
Một người trông có vẻ mạnh mẽ, thực ra nội tâm anh ta lại là tường thành xây bằng băng mỏng, gặp lửa thì tan, vừa xô liền đổ. Một người trông có vẻ mềm yếu, nội tâm anh ta lại được xây bằng gạch ngói tỉ mỉ, đơn giản chất phác, kiên cố vững chắc. Thế nhưng tất cả những điều này, đều bắt nguồn từ tao ngộ của đời người, nếu dặm đường năm tháng bằng phẳng suôn sẻ, vết thương lòng ít, chẳng đến nỗi yếu đuối không chịu nổi. Nếu vận mệnh gập ghềnh trắc trở, trong lòng tất nhiên ngàn trăm lỗ thủng, đến lúc đó, dù bạn vá víu thế nào, cũng không thể chắp vá nên bộ dạng ban đầu.
Thế gian này có những việc có thể hối hận, có những việc ngay cả tư cách hối hận cũng không có. Ví như Tsangyang Gyatso, khi hàng ngày Ngài đọc thuộc kinh văn vô vị, tay cầm tràng hạt cứng ngắc, ngửi cùng một loại đàn hương, sâu trong nội tâm, chắc chắn Ngài sẽ hối hận vì ban đầu không làm khác đi. Nhưng Ngài có tư cách hối hận chăng? Năm xưa Ngài được sứ giả rước vào cung Potala, căn bản đã không có đường nào chọn lựa, vì Ngài được số mệnh định sẵn là linh đồng chuyển thế của Đạt Lai thứ 5, kiếp này chỉ có thể sống vì kiếp trước. Bất kể Ngài bằng lòng hay không, Ngài đều phải tiếp nhận điển lễ tọa sàng, tiếp nhận vinh dự chí cao vô thượng này. Nếu Ngài cũng từng có vui sướng, đó là bởi vì chàng thiếu niên mười lăm tuổi còn có một trái tim non nớt. Vận mệnh đột ngột thay đổi khiến Ngài không có thời gian suy nghĩ đây rốt cuộc là một niềm vinh dự hay là một nỗi tiếc nuối.
Đây là quà tặng ông trời ban thưởng cho Ngài, một phần quà tặng không thể chối từ, lại nặng nề như núi. Chưa ai từng hỏi Ngài có gánh vác nổi hay không, đến với thế gian này, Ngài định sẵn trở thành truyền kỳ. Khi Ngài ngồi trên ngai Phật của cung Potala, đứng ngồi không yên đọc kinh, tham thiền, cõi lòng lại theo gió mát nhởn nhơ lượn ngoài cửa sổ bay đến phương xa. Làng nhỏ hẻo lánh từng gọi là quê hương ấy cho Ngài niềm vui quên hết tất cả, lại không cho nổi Ngài một chốn về yên ổn bình dị. Chốn về của Ngài là ở đâu? Chốn về của thể xác Ngài nhất định là cung Potala, nhưng chốn về của tâm linh, lại là làng quê miền núi tên là Monyu ấy.
Mỗi người trong lòng đều có tín ngưỡng thuộc về mình, tín ngưỡng này không nhất thiết là tôn giáo. Bạn có thể tín ngưỡng một gốc cây, tín ngưỡng một ngọn cỏ, tín ngưỡng một con cừu, còn có thể tín ngưỡng tình yêu. Nếu để Tsangyang Gyatso lựa chọn, tôi nghĩ Ngài sẽ chọn suốt đời trông nom một gian nhà nhỏ đơn sơ, kề cận người yêu của mình và cảnh vật thiên nhiên Ngài luôn yêu thích. Mặc dù sâu trong nội tâm Ngài cũng tôn sùng Phật giáo, thích đọc kinh văn, nhưng những điều này lại không thể trở thành toàn bộ cuộc sống, chỉ có thể xem là một kiểu tô điểm. Sinh mệnh của Ngài định sẵn là không hoàn hảo, vì Ngài bị gông xiềng dịu dàng của tình yêu trói buộc, muốn vùng dậy thoát ra, kiếp này e rằng không thể.
Trước đó, chẳng ai nói với Ngài, một người dân Monpa chất phác lãng mạn không thể có tình yêu. Khi Ngài bắt đầu biết yêu, cùng cô gái làng bên ái mộ lẫn nhau, vì sao không ai nói cho Ngài biết, kiếp này của Ngài định sẵn không có hôn nhân trọn vẹn. Vị Phật sống trong cung Potala - Tsangyang Gyatso bi ai than thở: “Nếu đời này vĩnh viễn bị giam cầm trong tòa cung điện đẹp đẽ này, thế thì xin giao trả cho ta kiếp trước, có lẽ ta còn có thể chọn lựa lại một lần nữa, chịu chuyển thế luân hồi một lần nữa”. Lẽ nào Ngài không biết, chuyển thế luân hồi sớm đã viết sẵn trên đá tam sinh[1], đi qua Vong Xuyên của năm tháng, chẳng ai có thể chọn lựa vận mệnh tương lai cho mình.
[1] Theo tín ngưỡng Á Đông, Điện Diêm Vương thứ 10 ở địa ngục cai quản việc chuyển tiếp đầu thai. Tại điện này có cầu Nại Hà bắc qua sông Vong Xuyên (Sông Quên). Ven sông có một tảng đá, gọi là đá Tam Sinh, ghi lại kiếp trước kiếp này kiếp sau của con người. Những linh hồn được đi đầu thai trở lại làm người đều phải qua Vong Đài (Đài Quên), uống canh của Mạnh Bà để quên hết chuyện kiếp trước.
Sương trắng trên cỏ lác,
Sứ giả của gió đông.
Chính là hai kẻ ấy,
Chia cắt hoa và ong.
Thiên nga yêu hồ nước,
Muốn ở thêm một hồi.
Nhưng mặt hồ băng đọng,
Làm buốt giá tim tôi.
Mùa xuân này, mùa xuân của Lhasa, trong gió xuân dịu dàng, Tsangyang Gyatso ngửi thấy hương thơm thanh khiết thoang thoảng của cỏ xanh, nhìn thấy mây trắng nhàn nhã lướt qua trước cửa sổ. Những cảnh vật tự nhiên này lại gợi lên trong lòng Ngài khát vọng vô hạn đối với quê hương. Đều nói Phật là vạn năng, có thể nhìn rõ ràng thấu suốt tất cả mọi thứ trên thế gian, nhưng Tsangyang Gyatso giờ đây, được xưng là Phật sống, vì sao không thể xử lý ngay cả cuộc đời của chính mình? Nỗi nhớ như cỏ dại ngập tràn nơi đáy lòng, khiến Ngài lúng túng. Không ai thật sự hiểu được tâm sự của Ngài, Ngài mong chờ hoàng hôn, mong chờ đêm đến, lúc đó, cho dù quạnh quẽ, thời gian ngắn ngủi đó lại thật sự thuộc về bản thân.
Ban ngày, Tsangyang Gyatso cực nhọc học tập kinh văn, không dám một phút lơ là. Chỉ vào lúc đêm khuya, cả tòa cung điện yên tĩnh hẳn, Ngài mới dám lấy 乃út mực ra, khẽ viết thơ tình. Con người chính là như thế, khi bạn có, có lẽ sẽ cảm thấy tất cả chẳng quan trọng lắm. Sau khi mất đi, lại ngày mong đêm nhớ, mong mỏi một ngày đoạt về được báu vật thất lạc. Thật là mâu thuẫn, nhưng không biết bắt đầu từ lúc nào, chúng ta đã thích mâu thuẫn như vậy, bằng lòng vương vấn không thôi với những tâm tư mơ hồ.
Xin Lạt Ma đắc đạo,
Chỉ đường sáng cho tôi.
Do chẳng hồi tâm được,
Lại đến bên nàng rồi.
Khuôn mặt sư nghĩ mãi,
Chẳng hiện ra trong lòng.
Dung nhan nàng hiện rõ,
Dù có nghĩ hay không.
Chữ màu đen viết xong,
Nhòe bởi mưa và nước.
Tâm tư muốn viết ra,
Muốn xóa không xóa được.
Dù là như thế, Tsangyang Gyatso cũng không phải không hề động lòng đối với quyền lực. Trong tòa cung điện vĩ đại này, Ngài là Phật sống, vốn phải có địa vị chí tôn và phong lưu vương giả, thống trị muôn dân trăm họ. Nhưng giờ đây, trong không gian rộng lớn này, Ngài không có cả tư cách nói chuyện. Ngài khát khao thời gian ba năm sớm qua đi, bản thân có thể chủ trì chính sự, trong điện lớn uy nghiêm này, cất lên tiếng nói của mình. Không phải Tsangyang Gyatso tham luyến quyền quý, trong cục thế đã không thể thay đổi, Ngài chỉ biết cúi đầu khuất phục. Đã không thể trở lại được như trước, Ngài cũng không thể đắm chìm trong hiện tại, Ngài là Phật sống, cần tuân theo phương thức của Phật sống để tiếp tục sinh tồn.
Do đó, ba năm nay, Tsangyang Gyatso dù không quên được ngày tháng tươi đẹp của quá khứ, không quên được người tình mơ xanh ngựa gỗ, nhưng Ngài cũng sống rất tỉnh táo. Ngài hiểu được sâu sắc, chỉ có học tập thành tựu, Đệ Ba Sangye Gyatso mới giao phó chính quyền cho Ngài. Cuộc sống như chim trong Ⱡồ₦g ba năm khiến Ngài cảm thấy linh tính còn lại trên người mình đang dần dà mất đi, tình cảm mãnh liệt đối với cuộc sống ngày trước cũng lặng lẽ nhạt dần. Tsangyang Gyatso giống như một cây cỏ khô, cần ánh nắng và mưa móc tưới nhuần mới có thể sống lại. Đúng vậy, Ngài khát khao sống lại, khát khao thật sự ngồi trên ngai Phật cao ngất, bàn việc với các sư trong điện lớn, lắng nghe tiếng nói của muôn dân, dùng sức mạnh của mình, giải nạn trừ lo cho họ.
Mùa hoa nở đã qua,
Ong chớ nên rầu rĩ.
Duyên yêu nhau đã tận,
Ta cũng chẳng sầu bi.
Nếu duyên phận quả thật đã hết, cũng không cần quá đỗi bi thương. Cứ đem ký ức chôn chặt đáy lòng, lúc không người, một mình trầm tư, tưởng tượng từng vui vẻ bên nhau, chỉ là ngắn ngủi đến nỗi giống như một lần hoa nở. Hoa lỡ mất mùa nở rộ, vẫn còn có năm sau, duyên phận Ngài bở lỡ, có thể tìm lại được không? Không thể nghĩ ngợi nữa, một người quá đỗi chìm đắm trong ngày hôm qua là tự chuốc lấy đau khổ. Nếu đời này Tsangyang Gyatso đều không thể rời cung Potala, thế thì lối thoát duy nhất của Ngài, chính là giải thoát bản thân. Hồng trần và cõi Phật, cách nhau một dãy núi, một dòng sông, Ngài hoặc là tung người nhảy qua, hoặc là ngồi thuyền vượt sông.
Tuy nhiên, Tsangyang Gyatso cuối cùng cũng chịu đựng qua ba năm, gian khổ ba năm, trói buộc ba năm, Ngài phải chăng nên phá kén mà ra? Làm một chú bướm đẹp đẽ tự tại, kiêu ngạo nhẹ nhàng bay lượn giữa trăm khóm hoa. Dẫu là một đám mây trôi, không gốc không rễ, ít nhất cũng có thể trời cao biển rộng. Mười tám tuổi, cũng đã chờ đến mười tám tuổi, đây là tuổi Đạt Lai Lạt Ma tự mình chấp chính. Tsangyang Gyatso mười tám tuổi đã từ một thiếu niên anh tuấn trở thành một thanh niên trí tuệ sáng suốt, đọc kinh niệm Phật ba năm khiến Ngài thoát khỏi bản tính hoang dại của thảo nguyên, có học thức thâm thúy.
Nhưng vì sao Sangye Gyatso cứ lần lữa không chịu giao quyền trượng đến tay Ngài? Ngồi trên ngai Phật của cung Potala, dù ngày nào cũng có người rạp mình dưới chân Ngài, nhưng Ngài trước sau như một, không có mảy may quyền lực chấp chính. Ngài vẫn là con cờ do Sangye Gyatso sắp xếp, so với lúc trước, càng thêm nhu nhược, càng thêm bó tay hết cách. Chẳng lẽ chính sự rối rắm khiến Sangye Gyatso bận đến nỗi quên mất hay sao? Y làm sao có thể quên cơ chứ? Nhẫn nại ba năm, nói quên liền một nét 乃út sổ toẹt hết thảy như thế hay sao?
Không, Sangye Gyatso không hề quên, nếu y thật sự quên, Tsangyang Gyatso vẫn phải nhốt mình trong phòng đọc kinh niệm Phật, chứ không thể ngồi trên điện lớn, lắng nghe các sư lễ bái. Tất cả những điều này chẳng qua là cảnh giả, vì Sangye Gyatso sẽ ở sau lưng giả vờ cùng Tsangyang Gyatso bàn bạc chính sự; trên thực tế, quyền quyết định vẫn nắm chắc trong tay Sangye Gyatso. Hơn nữa y thường vẫn nhắc đến vấn đề trả lại quyền cho Ngài, chỉ là mỗi lần Tsangyang Gyatso ngẩng đầu mong đợi, cuối cùng đều kết thúc bằng thất vọng.
Tsangyang Gyatso trẻ tuổi không biết nên đòi một lời giải thích với ai. Nhìn Phật cầm hoa mỉm cười[2], Ngài cũng cười, chỉ là Ngài cười một cách ẩn nhẫn, cười một cách bất lực, cười một cách hoàn toàn không có vẻ ung dung và ôn hòa của nhà Phật. Ngài là vua của cung Potala, chỉ là trên sân khấu không ai hỏi han, một mình đạo diễn một màn kịch buồn vui vô thường.
[2] Cầm hoa mỉm cười (Niêm hoa vi tiếu): là một giai thoại thiền, ghi lại sự kiện Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đưa cánh hoa lên khai thị, tôn giả Ca Diếp mỉm cười. Đây là biểu thị cho pháp môn lấy tâm truyền tâm, một pháp môn siêu ngôn ngữ, siêu văn tự. Trong pháp môn này chỉ có sự giao cảm, rung động giữa hai tâm thức thầy và trò, và hai tâm thức này đã đồng nhất. Đó là cái tâm vi diệu Niết bàn.