Kể từ hôm đó, tên của Liễu Địch gắn liền với thầy Chương.
Cô bắt đầu phụ trách việc đưa thầy Chương lên lớp và về văn phòng, đưa thầy tới bến xe buýt đợi xe mỗi khi tan học. Sau khi trở thành đại diện khối Văn, cô bắt đầu giúp thầy Chương phê bài tập làm văn vào mỗi buổi trưa. Sau kỳ thi giữa kỳ và cuối kỳ, cô còn tranh thủ thời gian rảnh rỗi thay thầy Chương viết những lời phân tích và nhận xét khách quan trên mỗi bài thi môn Ngữ văn. Cô trở thành người bận rộn nhất khối, người ra vào văn phòng của thầy Chương nhiều nhất.
Tuy nhiên, chỉ dựa vào những điều này, Liễu Địch vẫn chưa thể bước vào thế giới của thầy Chương. Thầy Chương không phải là người dễ tiếp cận. Thầy tránh xa tất cả mọi người, làm gì cũng lặng lẽ, một mình. Về điểm này, chỉ cần gặp thầy một lần, người ngu ngốc thế nào cũng có thể nhận ra. Thầy suốt ngày mặc bộ đồ có hai màu đen trắng đơn điệu, sống lưng luôn thẳng tắp, gương mặt vô cảm, hốc mắt trống không. Tất cả những điều này tạo thành hình ảnh lạnh lùng, vô tình, vô cảm không thay đổi. Vì vậy, dù có người muốn tiếp cận thầy và giúp đỡ thầy, cũng đều bị vẻ lạnh nhạt của thầy đánh bại.
Trong trường của một, hai người tốt bụng, vì sự đồng tình và thương hại, từng thử tìm cách giúp thầy Chương. Thầy đã từ chối bằng thái độ lịch sự nhưng vô cùng lạnh lùng, xóa bỏ hoàn toàn ý định của họ. Một thời gian sau, mọi người đều biết, “giúp đỡ” vĩnh viễn là từ cấm kỵ trong từ điển của thầy Chương. Do đó, không người nào dám nhắc đến từ đó trước mặt thầy, bao gồm cả Liễu Địch.
Có lẽ chỉ ở trên bục giảng, mọi người mới cảm thấy thầy Chương vẫn còn một chút sức sống và niềm hứng thú. Thầy Chương ở trên bục giảng khiến người khác có cảm nhận thầy đúng là “tài hoa xuất chúng”. Thầy quả nhiên không “đọc mẫu” thêm một lần nào nữa, nhưng cũng không còn người nào dám nghi ngờ khả năng thuộc lòng các tác phẩm nổi tiếng cổ kim, trong và ngoài nước của thầy.
Thầy luôn có cách nhìn độc đáo về các tác phẩm. Bài giảng của thầy vô cùng hấp dẫn. Những phân tích sâu sắc và cách trình bày vấn đề thấu đáo của thầy kích thích đám học sinh ở bên dưới thảo luận từ lớp học ra đến sân thể dục, từ trong trường học ra ngoài đường, từ hôm nay đến ngày mai.
Dần dần, vẻ lạnh nhạt của thầy Chương cũng ít nhiều thay đổi. Tuy rằng lúc học sinh cười ầm ầm, thầy vẫn điềm nhiên như không, nhưng vẻ mặt thầy đã trở nên ôn hòa hơn. Thỉnh thoảng thầy vẫn bộc lộ sự tán thưởng và vui mừng. Điều này khiến cả lớp cảm thấy thầy thêm gần gũi.
Một điều đáng quý là thầy không bao giờ gò ép hay hạn chế tư tưởng của học sinh, mà thường để những người “không cùng chính kiến” mạnh dạn bày tỏ quan điểm của mình.
Một lần, hiệu trưởng Cao và một thầy giáo khác trong tổ Văn tên Doãn Hồng dự tiết dạy của thầy Chương. Cả lớp tranh luận về văn phong của Lỗ Tấn[1] rất hăng say. Đặc biệt, ngôn từ của “bên phản đối” có vẻ rất kịch liệt, đến mức nhà văn Lỗ Tấn mà nghe được chắc sẽ đội mồ chui lên để tranh luận cùng chúng.
[1] Lỗ Tấn (1881-1936): nhà văn đặt nền móng cho văn chương hiện đại Trung Quốc, bậc thầy của thể loại truyện ngắn, nổi tiếng với ngòi 乃út hiện thực sắc lạnh và sâu cay.
Thầy Chương nghiêm túc lắng nghe ý kiến của hai bên, sau đó thầy đưa ra quan điểm của mình: “Có lẽ nhà văn Lỗ Tấn cũng không thích văn phong khô khan như vậy, nhưng ông buộc phải sử dụng nó. Bởi lối hành văn này do thời đại ép buộc. Nếu Lỗ Tấn không có tinh thần trách nhiệm với thời đại và dân tộc, cứ sống nhàn nhã, thoải mái như Hồ Thích[2] hay Lâm Ngữ Đường[3], có lẽ văn phong của ông không đến nỗi lạnh lùng, nghiêm túc như các em nhận xét. Nhưng ông làm vậy, trên văn đàn sẽ thiếu đi một người chiến sĩ dùng ngòi 乃út thay giáo gươm. Xin hỏi, ở thời đại nhiễm nhương đó, chúng ta cần một dũng sĩ đối mặt trực tiếp với nhân sinh thê lương hay cần văn nhân phong hoa tuyết nguyệt?”
[2] Hồ Thích (1891-1962): tên thật là Hồng Tân, nhà văn, nhà triết học Trung Quốc thời cận – hiện đại, người truyền bá chủ nghĩa thực dụng ở Trung Quốc, cho rằng thực tại chỉ là các mối quan hệ về cảm giác giữa con người, ông theo thuyết duy tâm chủ quan, tuyên truyền tư tưởng tự do cá nhân, dân chủ và khoa học.
[3] Lâm Ngữ Đường (1895-1976): nhà văn nổi tiếng Trung Quốc, người có công đầu trong việc giới thiệu văn hóa, văn học Trung Quốc ra thế giới.
Thầy Chương vừa dứt lời, hiệu trưởng Cao đập bàn khen hay, đám học sinh cũng cảm thấy nhận thức của mình trở nên sâu sắc hơn. Sau tiết học, thầy Doãn chỉ trích thầy Chương “thả lỏng học sinh” ngay trước mặt hiệu trưởng và cả lớp. Thầy Chương chỉ lạnh nhạt nói một câu: “Tôi cho rằng hạn chế tư tưởng là hành vi Ϧóþ ૮ɦếƭ tài năng.” Câu nói của thầy Chương nhận được tràng vỗ tay hưởng ứng nhiệt liệt, khiến thầy Doãn đỏ mặt tức giận.
Sau sự kiện đó, thầy Doãn hết sức dèm pha, bôi nhọ quan điểm của thầy Chương, mọi nơi, mọi lúc. Nhưng thầy ta không thể phủ nhận sự thật, trong mỗi kỳ thi, dù thầy ta có giở trò với bài thi như thế nào, thành tích trung bình của lớp 1 bao giờ cũng cao hơn lớp 2 một, hai điểm. Các thầy cô đều đánh giá học sinh lớp 1 rất có năng lực, các em đều có khả năng cảm thụ ngôn từ rất tốt.
Sau khi hồi chuông hết tiết vang lên, mọi vẻ ôn hòa, tán thưởng, vui vẻ trên gương mặt thầy Chương hoàn toàn biến mất như có phép thuật. Học sinh trong lớp không thể chấp nhận sự thay đổi bất thình lình đó, giống như không thể chấp nhận chuyện đang ở trên thiên đường rơi một phát xuống nơi thiêu xác đầy khói lửa. Học sinh cấp ba mười bảy, mười tám tuổi, không ai không sùng bái tri thức và học vấn, nhưng bọn họ càng hy vọng thầy giáo của mình có tình người hơn. Về phần thầy Chương, khi thầy nhắm mắt giảng bài, tình người thể hiện rất rõ. Khi thầy mở mắt, tình người bay đi một nửa. Đến khi thầy rời bục giảng, tình người biến mất hoàn toàn. Hơn nữa, hành vi cự tuyệt sự giúp đỡ trong ngày đầu tiên lên lớp của thầy đã khiến lòng tự trọng của đám học sinh bị tổn thương. Vì vậy, chúng không có cách nào có cảm tình với người thầy không có tình người như vậy. Chúng chỉ hoan nghênh thầy Chương trong giờ học, còn sau khi tan học, chúng đối với thầy luôn “kính nhi viễn chi”[4].
[4] Câu nói của Khổng Tử trong Luận ngữ, có nghĩa là bề ngoài tỏ ra kính nể một người nào đó nhưng trên thực tế không muốn tiếp cận, gần gũi với người đó.
Về phía các đồng nghiệp, thầy Chương càng không tránh khỏi việc bị đối xử lạnh nhạt. Đồng nghiệp thường đố kỵ nhau, tài hoa của thầy Chương đủ khiến thầy trở thành “oan gia” của tất cả các thầy cô giáo trong tổ Văn. Hơn nữa, các phần tử trí thức làm sao có thể chịu nổi thái độ “tự cho mình là thanh cao”, chẳng bận tâm đến người khác của một người mù?
Do đó, các thầy cô giáo khác cũng trở thành “oan gia” của thầy Chương. Nhưng thầy Chương dường như không để ý xem thầy có bao nhiêu “oan gia”, bởi thầy không qua lại với bất cứ người nào. Việc thầy một mình một văn phòng là minh chứng rõ rệt nhất. Bất kể các “oan gia” bàn ra tán vào ra sao, thầy Chương cũng không hề có phản ứng. Cuối cùng, bọn họ coi thầy như không tồn tại.
Một thầy giáo luôn tránh xa tất cả mọi người nhưng lại cho phép Liễu Địch ở bên cạnh khiến ai nấy đều trố mắt kinh ngạc. Bàn đến nguyên nhân của việc đó trong lúc tán gẫu, mọi người đều kết luận: “Có lẽ do Liễu Địch chăm sóc thầy ta quá chu đáo.”
Quả thực Liễu Địch chăm sóc thầy Chương rất chu đáo. Ngày thứ ba sau khi nhập học, cô phát hiện bình nước giữ nhiệt trong văn phòng thầy Chương thường không có gì, thế là sáng sớm hôm sau, cô đi lấy nước nóng cho thầy. Hai ngày đầu, bình nước vẫn còn nguyên. Đến ngày thứ ba, Liễu Địch phát hiện một gói trà ướp hoa bên cạnh bình nước. Cô mở nắp, nước trong bình đã cạn sạch. Dần dần, Liễu Địch nhận ra thầy Chương nghiện trà như người ta nghiện thuốc lá. Thế là sau khi đi lấy nước nóng, cô lại chủ động pha một cốc trà cho thầy Chương. Tất cả những việc này, Liễu Địch không nhắc một từ, thầy Chương cũng không bao giờ hỏi đến.
Đến kỳ dọn dẹp vệ sinh, Liễu Địch lại một mình tới văn phòng của thầy Chương quét dọn. Nhà trường cử thêm người giúp đỡ nhưng cô đều từ chối, bởi cô biết thầy Chương thích sự yên tĩnh. Cô nhẹ nhàng quét dọn phòng, lau bàn làm việc và cửa kính, cố gắng hết sức để không phát ra tiếng động.
Thầy Chương chỉ mím môi, chống tay lên đầu, ngồi trầm tư, không hỏi han Liễu Địch một câu. Trầm tư là sắc thái duy nhất trên gương mặt thầy. Liễu Địch biết, một khi rơi vào trạng thái trầm tư, thầy Chương sẽ ngồi bất động mấy tiếng đồng hồ, không người nào có thể cắt đứt mạch suy nghĩ của thầy. Vì vậy, sau khi kết thúc công việc, Liễu Địch âm thầm rời khỏi văn phòng.
Một tháng sau, thầy Chương đột nhiên nói với Liễu Địch: “Xin em hãy đến phòng Tài vụ lĩnh lương giúp tôi.” Không hiểu tại sao, khi thầy Chương nói đến từ “giúp”, Liễu Địch xúc động đến phát khóc.
Xem bảng tiền lương, Liễu Địch mới biết thầy Chương là giáo viên dạy thay, nói trắng ra là người dạy hợp đồng, không phải nhân viên chính thức. Trong lòng cô nổi lên sự phẫn nộ, bất bình, cứ như việc này không phải sỉ nhục thầy Chương mà là sỉ nhục chính cô vậy. Nhưng cô có thể làm gì? Một trường điểm chịu để người mù dạy học vốn đã là một sự khoan dung. Liễu Địch chỉ còn cách giao lại khoản tiền lương ít ỏi cho thầy Chương. Thầy nhận tiền rồi lập tức bỏ vào túi áo. Kể từ lần đó, hằng tháng, không đợi thầy Chương nhắc nhở, Liễu Địch đều chủ động lĩnh lương giúp thầy.
Không chỉ có chuyện lĩnh lương, Liễu Địch còn thay thầy Chương tham gia các cuộc họp giáo viên. Sau đó, cô truyền đạt lại nội dung cuộc họp với thầy. Có lúc Liễu Địch mang về một số bản khai. Thầy Chương đọc, Liễu Địch điền vào. Trong ô “học lực”, thầy Chương toàn bảo cô điền “tốt nghiệp phổ thông trung học”.
Liễu Địch không tin một người học rộng hiểu nhiều, tài hoa xuất chúng như thầy Chương mới chỉ học hết cấp ba. Cô còn nhớ học kỳ hai năm lớp 10, một đoàn đại biểu của Pháp đến thăm trường, đúng lúc người phiên dịch có việc đột xuất không thể có mặt, thầy Chương đã nói chuyện bằng tiếp Pháp trôi chảy, hoàn thành xuất sắc công việc phiên dịch, nhận được sự tán thưởng của đoàn khách người Pháp. Lẽ nào tiếng Pháp của thầy cũng học từ thời cấp ba? Liễu Địch vô cùng hiếu kỳ, nhưng nhớ đến lời cam kết, cô đành nghiến răng, kìm nén nghi vấn trong lòng.
Khi mùa đông đến, thầy Chương bị nhiễm virus cảm cúm, thế là Liễu Địch mang đến cho thầy một hộp thuốc cảm. “Một ngày ba lần, mỗi lần hai viên.” Liễu Địch không bao giờ nhắc đến từ “cho” hay “tặng”.
Thầy Chương nhận hộp thuốc, lặng lẽ lấy ra hai viên, bỏ vào miệng. Rồi thầy Chương ho khù khụ, thậm chí không thể lên lớp giảng bài. Buổi trưa, Liễu Địch lấy một gói thuốc bột chữa ho, pha vào cốc trà cho thầy. Lúc phê bài tập làm văn, thầy Chương phát hiện “nước trà” không đúng vị, thế là thầy không thưởng thức từng ngụm nhỏ như thường lệ mà uống một hơi hết sạch. Nhìn thầy không do dự uống hết cốc “trà”, Liễu Địch quên cả việc đọc bài văn. Một sự cảm động khó diễn tả thành lời trào dâng trong lòng khiến viền mắt cô ngân ngấn nước. Cô đột nhiên nhận ra một sự thật: thầy Chương tin tưởng cô, chỉ tin tưởng một mình cô.
Cứ thế, Liễu Địch trở thành người duy nhất thầy Chương tín nhiệm ở trường. Thầy chỉ nhận sự giúp đỡ của một mình Liễu Địch. Phàm là những việc ngoài khả năng, thầy sẽ không bảo cô làm. Thầy không phản đối, cũng không kiêng dè người khác đặt tên Liễu Địch cạnh tên thầy. Thậm chí, cô trở thành cầu nối duy nhất giữa thầy và thế giới bên ngoài. Những người khác muốn tìm thầy Chương phải thông qua cô.
Nhiều lúc Liễu Địch tự hỏi: “Tại sao thầy Chương lại tin tưởng mình như vậy?” Cô biết, không phải vì cô chăm sóc thầy chu đáo, bởi đối với người khác, thầy không cho họ cơ hội chăm sóc thầy. Có lẽ bởi cô luôn giữ lời hứa lúc ban đầu với thầy. Đúng là như vậy, dù trong lòng luôn đầy nghi hoặc, cô cũng không bao giờ hỏi một câu liên quan đến vấn đề riêng tư của thầy, càng không nói chuyện với người khác về thầy, Liễu Địch luôn dùng nụ cười để ứng phó.
Thật ra, Liễu Địch chẳng có gì để nói. Mặc dù cô thường xuyên tiếp xúc với thầy Chương nhưng ngoài những câu cần thiết, thầy không nói một lời thừa. Liễu Địch chưa gặp giáo viên nào nói “một từ đáng ngàn vàng” như thầy Chương. Trong công việc, nếu có thể dùng một từ đã biểu đạt rõ vấn đề, thầy tuyệt đối không nói từ thứ hai. Về hoàn cảnh của thầy, Liễu Địch cũng không biết nhiều hơn người khác, bởi cô không thích chủ động tìm hiểu chuyện riêng tư của người khác. Cô biết, xé toạc vết thương trong tâm hồn một người là việc làm tàn nhẫn. Có lẽ thầy Chương cũng vì muốn bảo vệ bản thân nên mới biến mình thành một tảng băng gai góc. Liễu Địch có thể tiến lại gần tảng băng nhưng cô sẽ không ᴆụng vào, càng không tìm cách xâm nhập hay làm tan chảy tảng băng đó.
Khi mùa xuân đến, Liễu Địch đặt một chậu hoa nhài nho nhỏ lên bệ cửa sổ trong văn phòng thầy Chương. Đến mùa hè, cây hoa nhài lớn với tốc độ đáng ngạc nhiên, nở những bông hoa trắng muốt. Thế là cốc trà của thầy Chương bắt đầu tỏa hương nhài dìu dịu. Mỗi lần nhìn thấy thầy Chương trầm ngâm suy nghĩ trong căn phòng đầy hương thơm thanh nhã, Liễu Địch đều cảm thấy dưới lớp vỏ bọc lạnh lùng, vô tình của thầy, nhất định là những tình cảm mà thầy không bộc lộ với bất cứ ai.