Liễu Địch vĩnh viễn không bao giờ quên cảnh tượng lần đầu tiên gặp thầy Chương Ngọc.
Lúc đó, cô mới thi đỗ vào ngôi trường cấp ba trọng điểm có lịch sử lâu đời với thành tích đứng đầu toàn thành phố. Tuy nhiên, thành tích của cô khiến người khác vui mừng, còn bản thân cô không hề cảm thấy tự hào. Liễu Địch nhanh chóng chán ngán tình cảnh gặp ai cũng được khen ngợi và chúc mừng. Mọi người đều gọi cô là “thiên tài”, trong khi đó cô rất ghét bị gọi là “thiên tài”.
Liễu Địch còn nhớ, năm lên bốn tuổi, khi cô được bế đứng trên ghế, cất giọng non nớt đọc thuộc làu hai câu: “Xuân giang triều thủy liên hải bình. Hải thượng minh nguyệt cộng triều sinh”[1] trước mặt một học giả, cô nhìn thấy ánh lệ lấp lánh trong mắt vị học giả đó. Kể từ lúc đó, Liễu Địch được gọi là “thiên tài”.
[1] Hai câu thơ trong bài Xuân quang hoa nguyệt dạ (Đêm trăng hoa trên sông xuân) của Trương Nhược Hư, nhà thơ đời Đường, Trung Quốc. Dịch thơ: “Triều lên ngang mặt sông xuân. Biển đêm, trăng cũng sáng ngần sóng xô” (bản dịch của Nguyễn Lãm Thắng).
Năm tuổi, Liễu Địch có bài thơ đầu tiên đăng tạp chí. Biên tập viên của tạp chí còn đến tận nhà chúc mừng cô. Nhìn chú biên tập viên mặt nhễ nhại mồ hôi, cô biết mình có chút tài năng. Sau đó, Liễu Địch đoạt giải nhất cuộc thi viết văn toàn quốc năm chín tuổi, tác phẩm của cô thường xuyên xuất hiện trên báo và tạp chí, cô không ngừng được thiên hạ gắn mác “thiên tài”.
Chỉ là nghe quá nhiều, Liễu Địch lại không đồng tình, thậm chí cô bắt đầu nghi ngờ bản thân rốt cuộc có phải là “thiên tài” hay không? Nhìn gương mặt thiếu nữ ngày càng xinh xắn trong gương, cô đột nhiên cảm thấy danh hiệu “thiên tài” mà cô giành được là dựa vào dung nhan này. Những cô gái xinh đẹp chỉ cần có một chút tài hoa là dễ dàng được người khác phái ưu ái và coi trọng. Trên thế giới, điều này là luật bất thành văn.
Mỗi khi nghĩ đến nguyên nhân đó, Liễu Địch lại cảm thấy vô vị và chán nản. Cô nhìn quá đủ những gương mặt tươi cười của người khác khi họ khen ngợi cô. Những gương mặt đó thể hiện sự nhiệt tình quá mức, thành ra không tự nhiên, Liễu Địch kết luận bằng hai từ “giả tạo”. Cô cho rằng, ánh lệ trong ánh mắt vị học giả và mồ hôi trên trán chú biên tập viên mới là chân thực, mới là khẳng định từ “thiên tài” một cách chuẩn xác nhất. Nhưng đó là chuyện từ ngày xửa ngày xưa, hiện tại cô đã mười sáu tuổi, còn dám vỗ иgự¢ tự xưng là “thiên tài” hay sao? Vì vậy Liễu Địch ngày càng ghét hai chữ “thiên tài”.
Xét ở một khía cạnh khác, là thiên tài thì sao chứ? Cô vẫn không có quyền lựa chọn cuộc sống của mình. Cô thích văn học nhưng vẫn phải cắm đầu học các môn Toán, Lý, Hóa. May mà ông trời ban tặng cho cô bộ óc thông minh, cô không cần chăm chỉ cũng có thể học tốt ba môn đó.
Liễu Địch không hiểu cô phải học những định luật, công thức và nguyên lý đó để làm gì. Trong tương lai, cô tuyệt đối không sống dựa vào mấy môn học khô khan này. Nhưng Liễu Địch biết rõ, nếu không học mấy môn chán ngắt đó, cô sẽ không thể thi đỗ đại học, không được tiếp nhận nền giáo dục chính quy mang tính hệ thống. May mà năm lớp 11, trường bắt đầu phân ban, Liễu Địch có thể nói “bye bye” với môn Vật lý và Hóa học. Điều này khiến cô cảm thấy được an ủi phần nào.
Từ trước đến nay, Liễu Địch không muốn sống trái với ý nguyện của bản thân. Vì vậy cô không tham gia đoàn thể, không làm cán bộ lớp, thậm chí bỏ lỡ vô số cuộc thi văn do trường tổ chức. Nhưng cô vẫn phải ép mình học các môn tự nhiên. Trong cuộc sống, bạn vĩnh viễn không có cách nào làm mọi việc theo ý mình, dù bạn có là thiên tài đi chăng nữa.
Học ở ngôi trường trọng điểm, Liễu Địch không mong bản thân được bạn bè để ý và yêu quý, cũng không hy vọng các thầy cô đề cao cô. Cô không tâng bốc ai, không lấy lòng ai. Cô chỉ cần một cuộc sống chân thực, tự do, độc lập. Cô hy vọng sau khi cô qua đời, trên bia mộ cô khắc một câu của nhà văn người Pháp Stendhal[2]: “Từng sống, từng yêu, từng sáng tác, từng phát biểu…”
[2] Stendhal (1783-1842): một trong những nhà văn nổi tiếng nhất của chủ nghĩa hiện thực với các tiểu thuyết như Đỏ và đen, Tu viện thành Pama.
Mang tâm trạng đó, Liễu Địch gặp thầy Chương Ngọc ở tiết ngữ văn đầu tiên của năm lớp 10.
Liễu Địch vẫn còn nhớ rõ, lúc thầy Chương Ngọc đi vào lớp, không hiểu tại sao cả phòng học vốn đang ồn ào đột nhiên yên tĩnh hẳn. Ai nấy đều cảm thấy có điểm gì đó bất bình thường nhưng không biết diễn tả ra sao. Thầy Chương dè dặt bước từng bước lên bục giảng trong không khí yên lặng đó.
Bộ dạng của thầy Chương nghiêm túc đến mức thâm trầm. Thầy cao gầy, sống lưng thẳng tắp, sắc mặt trắng bệch vô cảm, bờ môi mím chặt. Đặc biệt là cặp kính đen như hai hốc mắt trên hộp xương sọ, mang lại cảm giác lạnh lẽo, âm u, thê thảm. Chỉ liếc qua thầy, Liễu Địch đã bất giác rùng mình. Cô có cảm giác không phải mình đang nhìn thầy giáo, mà như đi vào một ngôi cổ mộ tĩnh mịch, ૮ɦếƭ chóc, vừa vào đã bị bao vây bởi nỗi kinh hoàng đáng sợ.
Không có màn tự giới thiệu, không có lời mở đầu, thầy Chương bắt đầu giảng bài.
“Các em, hôm nay chúng ta học tản văn Ánh trăng bên hồ sen của Chu Tự Thanh[3]. Mời các em mở sách giáo khoa, tôi sẽ đọc bài văn một lần.”
[3] Chu Tự Thanh (1898-1948): tự là Bội Huyền, người tỉnh Chiết Giang, tốt nghiệp khoa Văn-Triết trường Đại học Bắc Kinh (1920), từng là thầy giáo dạy Văn. Ông là nhà văn nổi tiếng Trung Quốc, sáng tác ở nhiều thể loại và có số lượng tác phẩm đồ sộ.
Lớp học bỗng xôn xao, nhưng nhanh chóng yên tĩnh trở lại. Liễu Địch đưa mắt về bục giảng, hai tay thầy Chương trống không. Thầy không hề cầm sách.
“Mấy ngày gần đây, trong lòng không yên tĩnh. Tối nay ngồi ở trước sân hóng mát, tôi đột nhiên nhớ tới hồ sen tôi vẫn ngày ngày đi qua. Dưới ánh trăng sáng ngời, nó có một dáng vẻ khác biệt. Trăng dần lên cao, tiếng nô đùa của bọn trẻ trên đường phố bên ngoài bờ tường đã dần biến mất. Bà xã ở trong nhà ru Nhuận Nhi ngủ… ngâm nga câu hát ru. Tôi âm thầm mặc áo khoác, mở cửa đi ra ngoài…”
Trời ạ! Cả lớp ngẩng đầu, há hốc miệng, ánh mắt kinh ngạc đổ dồn lên bục giảng nhìn người thầy đang ngẩng cao đầu, chắp hai tay sau lưng, đọc thuộc một bài tản văn khá dài. Thầy không cần nhìn sách cũng có thể đọc một cách rõ ràng, giọng vô cùng truyền cảm. Trong giọng nói của thầy có thơ, có họa, có tình, có cảnh, giống ảo ảnh mơ hồ, giống tiếng hát vang vọng. Thầy như đưa cả lớp tới hồ sen nhuộm ánh trăng bàng bạc đó. Trước mắt mọi người hiện ra hình ảnh bông sen lay động dưới ánh trăng, tỏa hương thơm dìu dịu.
Một điều kỳ diệu hơn, thầy Chương đã thể hiện được tâm trạng vi diệu rất khó phát giác của tác giả Chu Tự Thanh, đó là sự yên tĩnh mà ông theo đuổi trong suốt cuộc sống hiện thực ồn ào. Cả lớp say mê lắng nghe. Lúc này, thầy Chương cũng như chìm trong mộng cảnh do thầy tạo ra. Vẻ mặt nghiêm túc và thâm trầm của thầy có vẻ ôn hòa, khiến thầy như có sinh khí hơn.
“Tối nay, nếu có người ngắt sen, hoa sen ở đây cũng được coi là “quá đầu người”. Chỉ không thấy bóng nước lay động là không được. Điều này khiến tôi nhớ về Giang Nam. Mải chìm trong suy tư, đến lúc ngẩng đầu, tôi phát hiện đã đứng trước cửa nhà mình. Tôi lặng lẽ đẩy cửa đi vào, trong nhà không một tiếng động. Bà xã đã ngủ say từ lâu.” Thầy Chương đọc hết bài tản văn, không sai một chữ. Lớp học im phăng phắc, các bạn gần như nín thở, giọng nói truyền cảm của thầy vẫn phảng phất bên tai. Sau đó, không biết ai đó vỗ tay đốp đốp, tiếp theo, cả lớp cùng vỗ tay nhiệt liệt.
Thầy Chương lấy lại vẻ lạnh nhạt và nghiêm túc. Thầy tỏ ra thờ ơ trước tràng vỗ tay tán thưởng và khâm phục của đám học sinh, đến khóe miệng cũng không nhếch lên. Thái độ lạnh nhạt kỳ lạ của thầy khiến cả lớp càng ngạc nhiên trước việc thầy đọc thuộc bài tản văn một cách chính xác vừa rồi. Cả lớp không bảo nhau mà cùng nghĩ đến từ “đọc”, thầy không phải “đọc sách” mà là “đọc thuộc lòng”. Tiếng vỗ tay thưa dần.
Sau khi lớp học trở lại yên tĩnh, thầy Chương bắt đầu giới thiệu về tác giả. Về Chu Tự Thanh, thầy chỉ nói vài câu: “Chu Tự Thanh là giáo sư của Đại học Thanh Hoa kiêm viện trưởng Viện Văn học. Ông là học giả nổi tiếng, tác gia có ảnh hưởng lớn trên văn đàn, đồng thời cũng là người Trung Quốc có khí tiết. Thời tiểu học, các em đã được tiếp xúc với tản văn Màu xanh của ông. Thời cấp hai, các em từng học hai tản văn Bóng sáng sau lưng và Mùa xuân. Ngoài ra, phải kể đến các tác phẩm như Vội vàng, Truyện ký chọn bạn đời…”
“Thầy ơi, thầy có thể “đọc” tác phẩm Truyện ký chọn bạn đời không?”
Cả lớp quay đầu về nơi phát ra tiếng nói. Đó là một nam sinh cao gầy, cậu đỏ mặt, ánh mắt thách thức, giọng đầy mùi thuốc súng. Thế là các bạn lại đổ dồn ánh mắt về phía thầy Chương, trong đó không ít người có tâm trạng xem trò vui. Đám học sinh xuất sắc ở một ngôi trường xuất sắc, tật xấu lớn nhất là “tự cho mình là giỏi”, chúng ghét nhất thái độ ra vẻ ta đây của người khác. Thầy Chương bị chúng liệt vào hạng người “ra vẻ ta đây, khoe khoang tài năng”. Đọc thuộc lòng bài Ánh trăng bên hồ sen chẳng có gì là giỏi, nếu có thể đọc thuộc cả tác phẩm Truyện ký chọn bạn đời mà mọi người hầu như không biết mới được coi là có bản lĩnh thật sự. Các bạn đều ngẩng đầu, chờ câu trả lời của thầy Chương với tư thế của kẻ bàng quan. Chỉ có một người cúi thấp đầu, đó chính là Liễu Địch.
Đúng vậy, Liễu Địch không nhìn thầy Chương. Cô chưa từng đọc Truyện ký chọn bạn đời, thậm chí tên tác phẩm cũng là lần đầu tiên nghe tới. Một khi cô không biết tản văn này, cả lớp chắc chẳng có ai biết. Bắt thầy Chương đọc thuộc một tản văn không quá nổi tiếng, ít người biết đến trước mặt cả lớp là một thử thách lớn. Liễu Địch cảm thấy hơi lo cho thầy Chương. Có lẽ cô là học sinh duy nhất quan tâm đến thầy, bởi vì cô không hề có ý nghĩ thầy “ra vẻ ta đây” hay “khoe khoang tài năng”. Tuy nhiên, Liễu Địch không biết làm thế nào để ngăn cản sự việc đang diễn ra. Điều duy nhất cô có thể làm là bày tỏ kháng nghị bằng cách cúi đầu.
Sắc mặt thầy Chương vẫn vô cảm. “Tôi sẽ thử xem sao.” Câu nói của thầy khiến cả lớp nổi lên những tiếng bàn luận. Nhưng thầy nhanh chóng cất tiếng: “Bản thân là con cháu đích tôn, vì vậy chưa đến mười một tuổi, tôi đã được nghe nhắc đến chuyện chọn vợ…”
Thầy Chương đọc hết câu này đến câu khác. Thầy vẫn ngẩng cao đầu, chắp hai tay sau lưng, bộ dạng thong dong, từ tốn. Liễu Địch vô cùng kinh ngạc. Cô ngẩng đầu, phát hiện các bạn đang thì thầm bàn tán. Chúng cũng ngạc nhiên như cô.
Trên thực tế, không ai có thể chứng thực tản văn thầy Chương đang đọc thuộc lòng rốt cuộc có phải là Truyện ký chọn bạn đời hay không.
“Thưa thầy!” Một giọng nói vang lên cắt ngang lời thầy Chương. “Thầy có thể đọc Jane Eyre, tác phẩm tiêu biểu của Charlotte Bronte[4] không ạ?” Cậu nam sinh vừa lên tiếng nhanh chóng rút quyển sách từ cặp sách ra, đó chính là quyển Jane Eyre.
[4] Charlotte Bronte (1816-1855): nữ nhà văn người Anh, tác giả của những tiểu thuyết được xếp vào hàng kinh điển của văn học Anh.
“Chương mấy?” Thầy Chương tựa hồ không nhìn thấy hành động mang tính chất sỉ nhục đó.
“Chương một ạ!”
“Ngày hôm đó vốn không thể đi tản bộ. Không sai, buổi sáng chúng tôi đã dạo một tiếng đồng hồ trong rừng cây trụi lá…”
“Chương ba.”
“Trong ký ức của tôi, sự việc tiếp theo là tôi cảm thấy giống như tỉnh dậy sau một cơn ác mộng kinh hoàng…”
“Chương mười.”
“Cho đến bây giờ, tôi đã ghi chép tường tận một số chuyện nhỏ nhặt không đáng kể trong cuộc sống…”
“Chương hai mươi lăm.”
“Một tháng sau khi tỏ tình, mấy tiếng cuối cùng có thể đếm được trên đầu ngón tay…”
“Chương ba mươi mốt.”
“Cuối cùng tôi cũng tìm thấy nhà…”
Vẻ kinh ngạc của cậu nam sinh đã nói cho cả lớp biết thầy Chương không đọc sai một chữ.
“Chương ba mươi sáu.” Cậu nam sinh không chịu khuất phục, lại lên tiếng. “Thưa thầy, xin thầy hãy đọc câu tiếp sau câu này: “Là một nỗi đau khổ như thế nào mà người này tựa hồ hạ quyết tâm trì hoãn?”
Tay phải của thầy Chương đột nhiên cuộn lại thành nắm đấm, người thầy hơi lảo đảo. Thầy im lặng hồi lâu. Liễu Địch nhìn thấy giọt mồ hôi trên trán thầy.
Các bạn trầm mặc, trao đổi ánh mắt đắc ý và vui vẻ của kẻ chiến thắng. Liễu Địch thở dài. Không hiểu vì sao nhìn những gương mặt cười cợt trên nỗi đau của người khác, trong lòng cô hơi khó chịu.
Cuối cùng, thầy Chương cũng lên tiếng, thầy đọc câu tiếp theo bằng ngữ điệu đau đớn: “Hai mắt ông đã bị mù. Đúng vậy. Edward Rochester đã hoàn toàn trở thành người mù…”
Cậu nam sinh buông quyển sách, lặng lẽ tuyên bố sự thất bại của mình. Các bạn khác như bùng lòng hiếu kỳ, nhanh nhảu nên tên một loạt tác phẩm nổi tiếng chợt xuất hiện trong đầu, dù một số tác phẩm, bọn họ cùng lắm chỉ biết tên:
“Anna Karenina.”
“Hồng lâu mộng.”
“Phục sinh.”
“Hoàng Hà chảy về phía đông.”
“Ông già và biển cả.”[5]
[5] Anna Karenina, Phục sinh: hai tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn người Nga Lev Tolsoy. Hồng lâu mộng: tiểu thuyết nổi tiếng của Tào Tuyết Cần, Trung Quốc. Ông già và biển cả: tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn người Mỹ Ernest Hemingway. Hoàng Hà chảy về đông: tiểu thuyết của Lý Oa.
...
Cho đến khi không còn ai đứng dậy đề nghị thầy Chương đọc thuộc tác phẩm nữa, cuộc khảo vấn mới kết thúc. Cả lớp không ai thắng được người thầy đang lặng lẽ đứng trên bục giảng kia.
Cả lớp cuối cùng cùng bị chinh phục hoàn toàn. Vẻ bất mãn, ngông cuồng và thách thức trên mặt chúng hoàn toàn biến mất, thay vào đó là sự khâm phục và sùng bái. Lần đầu tiên trong đời, chúng biết thế nào là “sự uyên bác”, là cảm giác nhỏ bé và bi ai của con ếch ngồi dưới đáy giếng ngước nhìn bầu trời bao la.
Về phần Liễu Địch, cô biết thế nào là “thiên tài” thực sự.
Thế nhưng, trước vô số ánh mắt sùng bái, thầy Chương vẫn lạnh lùng, vô cảm. Thầy cất giọng bình thản: “Các em còn cần tôi đọc tác phẩm nào nữa không?”[6]
[6] Thầy Chương dùng từ “độc” có nghĩa nhìn vào sách hay văn bản để đọc.
“Đọc”? Lại là “đọc”? Những đứa trẻ mười sáu, mười bảy tuổi này, dù sùng bái một người đến mấy, cũng không thể chịu được sự ngông cuồng và miệt thị từ ngữ. Lớp học lại ồn ào. Trong âm thanh tạp loạn, một giọng nói trong trẻo vang lên: “Thưa thầy, tại sao thầy luôn gọi “thuộc lòng” thành “đọc”? Lẽ nào thầy lớn lên với kiểu “đọc” sách đó?”[7]
[7] Đáng lẽ thầy Chương phải dùng từ “bội” tức đọc thuộc lòng. “Độc” và “bội” là hai từ có cách đọc, cách viết và ý nghĩa hoàn toàn khác nhau.
Đây là lời chất vấn của bạn cùng bàn Liễu Địch. Câu nói này dẫn đến một loạt tiếng nhao nhao chỉ trích. Mọi người bàn luận, trách cứ thầy, như thể đó không phải là người thầy chúng sùng bái vài phút trước mà là một tên tội phạm.
Chỉ có Liễu Địch không lên tiếng. Đúng ra là cô im lặng từ đầu đến cuối, không đặt câu hỏi với thầy, cũng không lên tiếng phê bình thầy.
Về phần thầy Chương, trước sự công kích của đám học sinh, thầy vẫn trầm mặc, tựa hồ những lời trách cứ bên dưới không liên quan đến mình.
Liễu Địch ngước nhìn gương mặt vô cảm của thầy bằng ánh mắt nghi hoặc, cô muốn tìm ra nguyên nhân của sự trầm mặc đó. Trong đầu cô vụt qua một ý nghĩ. Liễu Địch giật mình bởi ý nghĩ này, cuốn sách Ngữ văn trong tay cô rơi bộp xuống đất. Cô so vai, cố gạt bỏ ý nghĩ đó nhưng nó càng lúc càng rõ ràng trong đầu cô. Thầy không mang giáo án, thầy dò dẫm đi từng bước lên bục giảng, thầy luôn gọi “thuộc lòng” là “đọc”, thầy đeo cặp kính đen...
Trời ạ! Liễu Địch đột nhiên cảm thấy ý nghĩ này vừa chân thực vừa sợ hãi. Tai cô ù ù, cô ra sức lắc đầu, dường như chỉ làm vậy mới có thể gạt bỏ suy nghĩ điên rồ đó. Cuối cùng, cô lại ngước nhìn gương mặt thầy. Thầy dường như không phải đối diện với vô số gương mặt sống sờ sờ mà đối diện với sa mạc mênh ௱ôЛƓ, thậm chí là đêm tối vô tận.
Tiếng ồn ào trong lớp học dần lắng xuống. Các bạn nhanh chóng phát hiện, bất kể chúng chỉ trích thế nào, cũng không thể chọc giận người thầy đang đứng trên bục giảng. Đến khi phòng học không còn một tiếng động, thầy Chương mới từ tốn nói: “Các em, tôi không nói sai, đúng là tôi đang “đọc”. Bởi vì tôi chỉ có thể “đọc” những cuốn sách đã in sâu trong đầu óc tôi.”
Cả lớp ngẩn ngơ. Liễu Địch là người đầu tiên có phản ứng. Trong đầu cô vang lên một câu nói, thầy “đọc” bằng ngữ điệu đau đớn: “Hai mắt ông đã bị mù. Đúng vậy, Adward Rochester đã hoàn toàn trở thành người mù...”
Liễu Địch không thể kiềm chế tiếng kêu khe khẽ: “Trời ơi!”
“Thực ra...” Thầy Chương nói tiếng. “Môn Văn ở cấp ba không cần thiết phải đọc mẫu. Cứ đọc ra rả theo sách, đến bản thân tôi cũng cảm thấy tẻ nhạt, vô vị. Ngữ văn là môn bồi dưỡng học sinh có cảm giác với ngôn từ và con chữ. Nếu biến nó trở thành tiết học mổ xẻ nội dung giáo dục tư tưởng, chi bằng ở bên dưới các em lén lút đọc tiểu thuyết còn hơn. Vì vậy, từ nay về sau tôi sẽ không đọc mẫu. Có điều...” Ngữ khí của thầy trở nên nặng nề. “Hôm nay, tôi phải đọc mẫu, tôi buộc phải làm vậy, dù có thể khiến các em hiểu nhầm tôi là kẻ ngông cuồng. Hy vọng các em hiểu lời tôi nói.” Ngừng một lúc, thầy nói thêm một câu: “Đúng rồi, từ nay về sau, trong tiết ngữ văn của tôi, các em có thể tự động đứng lên phát biểu, không cần giơ tay.”
Không cần giải thích thêm điều gì, người ngu xuẩn nhất cũng hiểu hàm ý của câu cuối cùng. Nếu là trong hoàn cảnh bình thường, câu nói đó chắc chắn sẽ nhận được tràng vỗ tay nhiệt liệt. Nhưng bây giờ, các bạn cúi đầu hổ thẹn, không dám nhìn gương mặt nhợt nhạt của thầy Chương. Liễu Địch chống tay lên trán, nỗi đau đớn cô chưa từng trải qua dấy lên trong lòng. Cô không cảm thấy hổ thẹn, ngược lại cô chỉ muốn khóc.